Đánh giá tình hình thị trường cà phê trong những năm qua - Sử dụng mô hình hồi qui tương quan phương sai không đồng nhất có điều kiện (arch)

Thực tế cho thấy rằng kể từ những năm của thập kỷ 90, ngành cà phê nước ta đãcó bước tăng trưởng vượt bậc và trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp. Cà phê là nông sản xuất khẩu quan trọng đứng hàng thứ hai sau lúa gạo. Bên cạnh đóvề mặt xã hội, ngành cà phê còn thu hút trực tiếp khoảng 600 ngàn lao động, chiếm xấp xỉ 3% tổng lao động nông nghiệp và cuộc sống của khoảng 1 triệu người chịu ảnh hưởng từ sự phát triển của ngành cà phê. Tuy vậy quá trình tự do hóa thương mại cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho sản xuất cà phê nước ta.  Sự dao động lớn của giá cà phê là nét đặc trưng lớn nhất của thị trường cà phê thế giới trong những năm vừa qua. Trong lúc đóngười sản xuất lại mù quáng chạy theo thị trường với một hệ thống thông tin thị trường không đối xứng có thể làmcho thị trường càng dao động lớn hơn. Hậu quả là giá cà phê bị sụp đổ và nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng không tốt đến người sản xuất.

pdf15 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2510 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình hình thị trường cà phê trong những năm qua - Sử dụng mô hình hồi qui tương quan phương sai không đồng nhất có điều kiện (arch), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31 ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ TRONG NHỮNG NĂM QUA - SỬ DỤNG MÔ HÌNH HỒI QUI TƯƠNG QUAN PHƯƠNG SAI KHÔNG ĐỒNG NHẤT CÓ ĐIỀU KIỆN (ARCH) Nguyễn Đăng Hào Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Thực tế cho thấy rằng kể từ những năm của thập kỷ 90, ngành cà phê nước ta đã có bước tăng trưởng vượt bậc và trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế nông nghiệp. Cà phê là nông sản xuất khẩu quan trọng đứng hàng thứ hai sau lúa gạo. Bên cạnh đó về mặt xã hội, ngành cà phê còn thu hút trực tiếp khoảng 600 ngàn lao động, chiếm xấp xỉ 3% tổng lao động nông nghiệp và cuộc sống của khoảng 1 triệu người chịu ảnh hưởng từ sự phát triển của ngành cà phê. Tuy vậy quá trình tự do hóa thương mại cũng đang đặt ra nhiều thách thức cho sản xuất cà phê nước ta.  Sự dao động lớn của giá cà phê là nét đặc trưng lớn nhất của thị trường cà phê thế giới trong những năm vừa qua. Trong lúc đó người sản xuất lại mù quáng chạy theo thị trường với một hệ thống thông tin thị trường không đối xứng có thể làm cho thị trường càng dao động lớn hơn. Hậu quả là giá cà phê bị sụp đổ và nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng không tốt đến người sản xuất. 32  Xu hướng vận động của thị trường nông sản có thể dẫn đến những bất lợi cho sản xuất nông nghiệp nước ta. Theo một số kết quả nghiên cứu, theo sau quá trình tự do hóa thương mại, giá cả hàng hóa nông sản có xu hướng giảm xuống trong dài hạn, và tình hình này còn tiếp tục trong những năm sắp đến (Mitchell và Ingco). Hai câu hỏi được đặt ra trong nghiên cứu này là: 1. Tại sao thị trường cà phê ở nước ta trong những năm qua biến động rất lớn và giá cả cà phê có xu hướng giảm xuống? 2. Những giải pháp nào có thể thực hiện để ổn định thị trường cà phê nước ta? Xuất phát từ những vấn đề đó, việc nghiên cứu tác động của quá trình tự do hóa thương mại đến thị trường cà phê nước ta là một việc làm hết sức cần thiết. Từ đó làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách nông nghiệp nhằm phát huy những lợi thế và hạn chế những tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta hiện nay. 33 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để phân tích giá cà phê trên thị trường trong nghiên cứu này chúng tôi đã sử dụng số liệu thống kê hàng tháng của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), Ngân hàng Thế giới (WB), Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam (VICOFA), Tổng công ty Cà phê Việt Nam (VINACAFE), bản tin thị trường của Bộ NNPTNT, Bộ Thương mại. Tình hình dao động của giá cà phê được xác định thông qua mô hình hồi quy tự tương quan phương sai không đồng nhất có điều kiện (ARCH), trong đó phương trình giá và phương sai giá cà phê ở nước ta dưới tác động của chính sách tự do hóa thương mại như sau: Pt = 0 + 1Pw + 4Te + 5Ret + iDi + t (1) 2t = 0 + j2t - j + iDi + t (2) Trong đó: Pt, 2t là giá nông sản và phương sai giá có điều kiện tại thời điểm t (tháng t). Di là các biến giả đại diện cho những thay đổi lớn trong chính sách tự do hóa thương mại ở nước ta trong những năm vừa qua, Pw là giá cà phê trên thị trường thế giới tại thời điểm t (tháng t), Te là thuế xuất khẩu đánh vào cà phê xuất khẩu, 34 Ret là tỷ giá hối đoái giữa VND và US$, i, j, i là các tham số ước lượng. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Thị trường cà phê thế giới với quá trình tự do hóa thương mại Sự dao động lớn của giá là nét đặc trưng lớn nhất của thị trường cà phê thế giới trong những năm vừa qua. Do đặc điểm nội tại của thị trường cà phê, nhìn chung độ co giãn cầu với giá thấp, trong khi đó cà phê là một cây công nghiệp lâu năm, phản ứng cung cà phê với giá thường rất trễ (Nguyễn Đăng Hào, 2002), một sự tăng giá cà phê tạm thời có thể làm cho người sản xuất đổ xô vào sản xuất, kết quả là làm cho cung cà phê ở những năm sau tăng nhanh. Hậu quả là giá cà phê bị sụp đổ và nếu tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng không tốt đến ngành sản xuất cà phê. Tình trạng này sẽ trở nên trầm trọng hơn khi mà khả năng điều tiết của chính phủ vào thị trường nông sản còn yếu và chưa có hiệu quả. Điều này có thể được minh chứng qua tình hình sản xuất cà phê ở nước ta trong những năm vừa qua. Hơn thế nữa, xu hướng vận động của thị trường cà phê có thể dẫn đến những bất lợi cho sản xuất cà phê nước ta. Theo một số kết quả nghiên cứu, theo sau quá trình tự do hóa thương mại, diện tích cà phê thế giới đã gia tăng nhanh ở các nước sản xuất cà phê. Kết quả là cung cà phê tăng nhanh trong thời gian gần đây và giá cà phê giảm xuống mức thấp nhất trong mấy chục năm gần đây. Những xu hướng thay đổi trong cung, cầu, kho đệm và sự dao động lớn của giá cà phê đang là những mối quan tâm hàng đầu cúa các nước đang phát triển dưới tác động của chính sách tự do hóa thương mại hiện nay. 35 Sản lượng cà phê quốc tế không ngừng tăng lên từ mức 90 triệu bao trong những năm 1980 lên 110 triệu bao những năm cuối 1990 và đầu thế kỷ 21 (bảng 1). Trong đó chủ yếu là cà phê chè (arabica) chiếm tỷ trọng trên 60%. Bảng 1: Sản lượng cà phê thế giới trong những năm 1997-2004 (ĐVT: triệu bao, 1 bao=60kg) 1997/98 1998/99 1999/2000 2000/01 2001/02 2002/03 2003/04 Arabica 64,899 74,913 73,697 71,223 67,892 82,431 65,887 Robusta 32,753 33,506 39,706 45,638 42,834 41,720 39,345 Total 97,652 108,419 113,403 116,861 110,726 124,151 105,132 Nguồn: ICO annual statistics Sản lượng cà phê gia tăng chủ yếu từ 2 khu vực sản xuất cà phê lớn của thế giới, đó là châu Mỹ và châu Á. Đặc biệt là trong những năm qua diện tích và sản lượng cà phê của Brazin tăng mạnh. Điều này đã gây áp lực tăng nhanh lượng cung cà phê ra thị trường thế giới. Bên cạnh đó khu vực châu Á, đặc biệt là Việt Nam cũng có sự gia tăng nhanh diện tích và sản lượng cà phê trong những năm qua. Nhìn vào biểu đồ ta thấy rằng phần lớn sự gia tăng sản lượng cà phê trong những năm qua là do hai khu vực nói trên. Theo thống kê của ICO trong những niên vụ gần đây lượng 36 cung cà phê từ 3 nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới là Brazin, Việt Nam và Colombia đã chiếm trên 60% tổng lượng cung cà phê trên thị trường quốc tế. Cân đối Cung - Cầu Tình hình sản xuất, xuất khẩu và nhập khẩu cà phê trên thị trường thế giới được thể hiện qua biểu đồ 1. Nhìn chung trong thời kỳ 1997-2004 lượng cung cà phê vượt quá lượng cầu cà phê rất lớn - đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự biến động lớn của giá cà phê. 0 20000 40000 60000 80000 100000 120000 140000 1997' 1998' 1999' 2000' 2001' 2002' 2003' 2004' Nam 10 00 b ao San xuat Xuat Khau Nhap khau Biểu đồ 1: Tình hình sản lượng sản xuất - xuất khẩu và nhập khẩu cà phê Một phản ứng có tính chất qui luật trên thị trường cà phê quốc tế đó là khi lượng cung vượt quá lượng cầu thì giá cà phê giảm xuống. Chẳng hạn tình trạng thiếu hụt lớn cà phê trong những năm 1994-1995 đã làm cho giá cà phê tăng đột biến trong những năm này. Ngược lại sự dư thừa lớn cà phê trong những năm 1999/2002 đã kéo theo sự giảm giá xuống mức rất thấp. 3.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê ở nước ta 37 Việt Nam là một trong những nước sản xuất cà phê có tốc độ tăng trưởng nhanh. Giai đoạn 1994 đến nay diện tích cà phê tăng rất nhanh, bình quân một năm trồng mới trên 43.000 ha. Đặc biệt là những năm 1994, 1995 và 1996 bình quân mỗi năm trồng mới trên 70.000 ha, chủ yếu là ở các tỉnh Tây Nguyên. Tốc độ tăng diện tích bình quân hàng năm thời gian này là 24%/năm. Vào những năm cao nhất (năm 2001) cả nước có 535.000 ha cà phê, tổng sản lượng đạt đến 900.000 tấn (biểu đồ 3). 0 100000 200000 300000 400000 500000 600000 700000 800000 900000 1000000 19 80 ' 19 82 ' 19 84 ' 19 86 ' 19 88 ' 19 90 ' 19 92 ' 19 94 ' 19 96 ' 19 98 ' 20 00 ' 20 02 ' Nàm ha /tá ún DT (ha) SL (táún) Biểu đồ 2: Diện tích, sản lượng cà phê Việt Nam qua thời kỳ 1980-2004 Cùng với việc tăng sản lượng sản xuất thì sản lượng cà phê xuất khẩu cũng tăng lên không ngừng, từ 92 ngàn tấn năm 1990 lên mức trên 700 ngàn tấn trong những năm gần đây. Sản lượng cà phê và khối lượng cà phê xuất khẩu đạt cao nhất vào năm 2001 với mức sản lượng 900 ngàn tấn và khối lượng xuất khẩu là 844 ngàn tấn, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê. Tuy vậy, có một nghịch lý xẩy ra đó là khi khối lượng cà phê xuất khẩu của nước ta càng lớn thì kim ngạch xuất khẩu cà phê càng giảm. Tình hình giá cả cà phê ở nước ta 38 Biểu đồ 4 phản ánh tình hình dao động của giá cà phê bình quân theo tháng trên thị trường quốc tế (Pw) và giá cà phê ở thị trường trong nước (Pd) trong thời kỳ 1990-2005. Nhìn chung, giá cà phê trong nước vận động theo cùng xu hướng với giá cà phê trên thị trường quốc tế, xu hướng này ngày càng chặt chẽ hơn khi mà Việt Nam trở thành một trong những nước hàng đầu về sản xuất và xuất khẩu cà phê Robusta, đặc biệt là sau chính sách tự do hoá thị trường cà phê xuất khẩu từ những năm đầu thập kỷ 90, tiếp theo đó những biến động lớn trên thị trường cà phê quốc tế ngay lập tức tác động đến thị trường cà phê trong nước 0 100 200 300 400 500 600 700 800 900 1000 19 90 ' 19 91 ' 19 92 19 93 ' 19 94 ' 19 95 ' 19 96 ' 19 97 ' 19 98 ' 19 99 ' 20 00 ' 20 01 ' 20 02 ' 20 03 ' 10 00 tá ún 0 100 200 300 400 500 600 700 Tr .U SD Saín læåüng (1000 táún) Xuáút kháøu (1000 táún) Trë giaï (Tr.USD) Biểu đồ 3: Tình hình sản lượng sản xuất, khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê 39 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 Pw Pd Biểu đồ 4: Mối quan hệ giữa giá cà phê ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế Trong thời kỳ 1990-2005 giá cả cà phê ở thị trường trong nước cũng dao động rất lớn, mức giá cà phê cao nhất là năm 1994, với mức bình quân 22 ngàn đồng/kg, trong khi đó mức giá thấp nhất là 3,23 ngàn đồng trong năm 2002. Trong thời kỳ 1998-2005 giá cà phê có xu hướng giảm xuống mức kỷ lục trong lịch sử ngành cà phê nước ta, giá bình quân cho cả thời kỳ này chỉ đạt 6,63 ngàn đồng/kg. Mức giá này thấp hơn nhiều so với giá thành sản xuất cà phê hiện nay, dẫn đến tình trạng thua lỗ trầm trọng cho người sản xuất cà phê. 3.3.Để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến giá cà phê và sự dao động của giá cà phê ở nước ta, kết quả mô hình hồi quy tự tương quan phương sai không đồng nhất có điều kiện có kết quả như sau. Bảng 2: Kết quả mô hình ARCH 40 Giá bình quân (Pt) Các biến giải thích Hệ số ước lượng Kiểm định z Hệ số tự do (c) -30,056 -13,13 Giá cà phê thế giới (Pw) 0,68 59,67 Tỷ giá hối đoái (Re) 0,0013 9,18 Thuế xuất khẩu (Ti) -0,64 -10,62 Biến dummy D1 (1994) 14.95 18.19 Phương sai giá (2t) Hệ số tự do (c) -29,95 -2,44 ARCH-1 1,074 3,46 Giá cà phê thế giới (Pw) 0,22 2,66 Tỷ giá hối đoái (Re) 0,0014 1,98 41 Thuế xuất khẩu (Ti) -0,400 -2,21 Biến dummy D1 (1994) 3,15 1,89 R2 0,88 Kiểm định F 112,12 Số quan sát 178 D-W 2,05 Phần lớn các tham số ước lượng cho cả phương trình giá và phương sai giá đều đạt mức ý nghĩa thống kê cao. Kết quả mô hình cho thấy rằng khi thị trường cà phê nước ta ngày càng được mở cửa, thì giá cà phê trong nước phụ thuộc lớn vào giá cà phê quốc tế, khi giá cà phê trên thị trường quốc tế tăng sẽ kéo giá cà phê ở thị trường nôi địa tăng theo. Một nhân tố giải thích quan trọng cho sự hình thành giá cà phê trong nước là sự thay đổi chính sách thương mại vào năm 1994, khi mà hệ số biến dummy có giá trị ước lượng rất cao và có mức ý nghĩa thống kê 99%. Bên cạnh đó, các biến còn lại không có ảnh hưởng lớn đến giá cà phê trong nước. Đúng như giả thiết kinh tế một mức thuế xuất khẩu đánh vào cà phê xuất khẩu đã làm cho giá cà phê giảm xuống. Trong khi đó một mức tỷ giá hối đoái theo hướng làm cho VND mất giá so với USD đã làm cho giá cà phê trong nước tăng lên. 42 Kết quả ước lượng cũng cho thấy rằng phương sai giá cà phê trên thị trường trong nước những năm qua dao động rất lớn là do các nhân tố giá cà phê thế giới, tỷ giá hối đoái, đặc biệt là sự thay đổi chính sách thương mại năm 1994 đã làm cho thị trường cà phê trong nước phụ thuộc lớn hơn vào giá cà phê thế giới. Kết quả là sự dao động lớn của giá cà phê ở nước ta phần lớn do nhân tố này tác động. 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Từ kết quả nghiên cứu này chúng tôi rút ra một số kết luận và kiến nghị như sau: Giá cả cà phê trên thị trường thế giới trong những năm qua dao động rất lớn, đặc biệt giá cà phê có xu hướng giảm xuống mức rất thấp trong những năm qua. Tình hình sụp đổ của giá cả cà phê trước hết là do sự gia tăng nhanh của diện tích cà phê ở những nước sản xuất lớn như Brazil, Côlômbia và Việt Nam. Diện tích cà phê thế giới tăng nhanh và phản ứng cung cà phê lại rất trễ. Điều này dẫn đến một sự thiếu hụt tạm thời cung cà phê làm giá cà phê tăng cao ở một thời điểm nào đó có thể làm cho các nước mở rộng diện tích cà phê. Kết quả là khối lượng cung cà phê tăng đột biến sau một số năm nào đó và hậu quả là giá cà phê sẽ hoàn toàn sụp đổ. Sự phát triển của ngành cà phê nước ta trong những năm qua chịu ảnh hưởng lớn của chính sách tự do hoá thương mại. Việc mở rộng quá nhanh diện tích cà phê và xuất khẩu lớn cà phê của nước ta đã có ảnh hưởng lớn đến thị trường cà phê thế giới. Kết quả là giá và sự dao động giá cà phê ở thị trường trong nước chịu ảnh hưởng ngày càng lớn của tình tình dao động của thị trường cà phê quốc tế. 43 Trong khi người sản xuất cà phê ở nước ta có qui mô và năng lực sản xuất bé nhỏ, đặc biệt là trình độ kinh doanh và khả năng tiếp cận thông tin thị trường kém, đòi hỏi phải có các chính sách can thiệp của nhà nước. Khi tham gia và trở thành một nước sản xuất cà phê lớn trên thị trường quốc tế đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu thị trường cà phê một cách cẩn thận làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách cho ngành cà phê mà trước hết là việc qui hoạch, xác định qui mô diện tích cà phê tối ưu. Bên cạnh đó việc hoạch định chính sách thị trường, cung cấp thông tin và đa dạng hóa các hình thức giao dịch trên thị trường cà phê cũng như tham gia và thực hiện các cam kết với ICO để giải quyết các vấn đề thị trường cũng rất cần thiết. Đặc biệt trong bối cảnh của ngành cà phê nước ta cần có các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá, tránh tình trạng độc canh phụ thuộc quá lớn vào cà phê. Việc áp dụng các biện pháp canh tác cà phê theo hướng bền vững để bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cà phê cũng hết sức quan trọng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Barrett, C.B. Liberalization and Food Price Distribution: ARCH-M Evidence from Madagascar. Food Policy 22(2) (1997) 155-173 2. Mamingi, N., The impact of prices and macroeconomic policies on agricultural supply: A synthesis of available results. Agr. Econ. 16, (1997) 17-34 3. Minot, N., and F. Goletti. Rice Markets, Agricultural Growth, and Policy Option in Vietnam. MSSD Discussion Paper No.14, IFPRI, April 1997. 44 4. Nguyễn Đăng Hào. Tác động của chính sách tự do hoá thương mại đến cung cà phê ở Việt Nam - Sự áp dụng mô hình cung Nerlove, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 13 (2002). 5. Nguyen Trung Que. Effects of Trade Liberalization on Agriculture in Vietnam, Institutional and Structural Aspects. The CGPRT center, working paper No 40, (1998). 6. Thoberke, E. Agricultural Market Beyond Liberalization: The Role of the State, Kluwer Academic Publishers (2000). ASSESSMENT OF COFFEE MARKET IN THE LAST YEARS - AN APPLICATION OF AUTOREGRESSIVE CONDITIONAL HETEROSKEDASTICITY (ARCH) Nguyen Dang Hao College of Economics, Hue University SUMMARY The overall impacts of trade liberalization on agricultural market are widely acknowledged with wide fluctuation of prices. The study aims to explore the relationship between the coffee prices in the world market and in Vietnam following liberalization of coffee market. Using monthly time-series data from 1990 to 2005, the Autoregressive Conditional Heteroskedasticity (ARCH) model is specifically designed to assess the factors which are affected the coffee price and conditional variances of coffee price in Vietnam. 45 Results of the study indicated that following the trade liberalization, coffee price in Vietnam is strongly dependent on the world market prices, as well as trade policies issued by Vietnamese government towards trade liberalization. The changes in the world market are immediately transferred to domestic market in the last decades. Integration into the world coffee market and become one of the biggest coffee producers, the wide volatility and rapid collision of coffee prices have caused many challenges for small coffee producers since they are lack of market information and coping strategies to reduce risks and uncertainty. There is a need for effective policies to manage coffee sector by optimizing coffee area, encouraging the diversification and improving coffee quality by using organic technology. At the same time, it is necessary to more open market access and introduce options to reduce risks.
Luận văn liên quan