Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - Thực trạng, chủ trương chính sách và khuyến nghị giải pháp

Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nông nghiệp, nông thôn cũng đang trong tiến trình này. Các nguồn lực đều được ưu tiên cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có nguồn nhân lực giữ vị trí then chốt, quyết định cho sự thành bại của công cuộc đổi mới này. Cả 3 lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chúng ta đều không xem nhẹ cái nào. Tất cả đều phải phát triển, tất cả đều có yêu cầu nguồn nhân lực tốt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay nguồn nhân lực vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa là thừa lao động chân tay, lao động giản đơn; Thiếu là thiếu lao động tay nghề cao, thiếu người quản lý, tổ chức giỏi. Cả hai điều đó đều tác động xấu và cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Để nông nghiệp, nông thôn phát triển tốt, tương xứng với kỳ vọng phát triển đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, nghĩa là khi đó nông nghiệp, nông thôn đạt mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cơ bản, lực lượng lao động trong nông nghiệp và ở nông thôn lúc này phải đảm bảo là động lực duy trì và phát triển. Như vậy nông nghiệp, nông thôn nước ta phải có nguồn nhân lực tốt, điều đó không tự nhiên có được mà phải thực hiện đào tạo. Công tác này đã và đang ở đâu? Để trả lời một phần câu hỏi lớn này chúng ta cần nghiên cứu đề tài “Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - thực trạng, chủ trương chính sách và khuyến nghị giải pháp”.

doc20 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4341 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - Thực trạng, chủ trương chính sách và khuyến nghị giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. MỞ ĐẦU 1.1. Đặt vấn đề. Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nông nghiệp, nông thôn cũng đang trong tiến trình này. Các nguồn lực đều được ưu tiên cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó có nguồn nhân lực giữ vị trí then chốt, quyết định cho sự thành bại của công cuộc đổi mới này. Cả 3 lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chúng ta đều không xem nhẹ cái nào. Tất cả đều phải phát triển, tất cả đều có yêu cầu nguồn nhân lực tốt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hiện nay nguồn nhân lực vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa là thừa lao động chân tay, lao động giản đơn; Thiếu là thiếu lao động tay nghề cao, thiếu người quản lý, tổ chức giỏi. Cả hai điều đó đều tác động xấu và cản trở sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Để nông nghiệp, nông thôn phát triển tốt, tương xứng với kỳ vọng phát triển đất nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, nghĩa là khi đó nông nghiệp, nông thôn đạt mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá cơ bản, lực lượng lao động trong nông nghiệp và ở nông thôn lúc này phải đảm bảo là động lực duy trì và phát triển. Như vậy nông nghiệp, nông thôn nước ta phải có nguồn nhân lực tốt, điều đó không tự nhiên có được mà phải thực hiện đào tạo. Công tác này đã và đang ở đâu? Để trả lời một phần câu hỏi lớn này chúng ta cần nghiên cứu đề tài “Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - thực trạng, chủ trương chính sách và khuyến nghị giải pháp”. 1.2. Giới hạn, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu. 1.2.1. Giới hạn nghiên cứu. Đề tài giới hạn trong phạm vi thời gian những năm gần đây, liên quan đến bức tranh nguồn nhân lực ở nông thôn và trong nông nghiệp, thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp, các thuận lợi, khó khăn và hạn chế của nó; từ đó có những khuyến nghị về chủ trương chính sách. Không đi sâu và mở rộng cho toàn bộ các ngành kinh tế và khu vực khác ngoài khu vực nông nghiệp và nông thôn. 1.2.2. Mục tiêu nghiên cứu. a. Mục tiêu chung: Nghiên cứu thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn nước ta, chủ trương và chính sách chính hiện tại, từ đó đề ra khuyến nghị giải pháp chính. b. Các mục tiêu cụ thể. - Hệ thống hoá lý thuyết về nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn; đào tạo nguồn nhân lực (cho nông nghiệp, nông thôn). - Thực trạng nguồn nhân lực trong nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay. - Xu thế vận động của nguồn nhân lực trong khu vực nông nghiệp nông thôn. - Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. - Chủ trương và chính sách chủ yếu đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Khuyến nghị giải pháp chính. 1.2.3. Phương pháp nghiên cứu. - Khai thác các nguồn số liệu có sẵn đã qua xử lý (thu thập số liệu thứ cấp) từ các nguồn khác nhau để mô tả thực trạng (thống kê mô tả). - Xây dựng khung lý thuyết để khái quát vấn đề. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. 2.1. Lý luận về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn. 2.1.1. Nguồn nhân lực. Dưới đây là một số khái niệm về nguồn nhân lực: - Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995). Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó. - Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. - Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hoá được trong công tác kế hoạch hoá ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số, bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy định của Bộ luật lao động Việt Nam (nam đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ đủ 15 đến hết 55 tuổi). Trên cơ sở đó, một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân lực hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ. Trong đó lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Lao động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động, người trong độ tuổi lao động nhưng không có nhu cầu lao động. 2.1.2. Nguồn nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn. Từ các khái niệm trên, ta có thể hiểu là: - Nguồn nhân lực cho nông nghiệp hay nguồn lực con người cho nông nghiệp bao gồm lực lượng lao động trong nông nghiệp và lao động dự trữ cho nông nghiệp. - Nguồn nhân lực cho nông thôn hay nguồn lực con người cho nông thôn bao gồm lực lượng lao động hiện có đang phục vụ cho nông thôn và lao động dự trữ sẽ phục vụ cho nông thôn cũng như sẽ có ở nông thôn. Nguồn nhân lực này bao gồm cả số lượng lao động sẽ từ nông thôn chuyển cho khu vực đô thị và của khu vực đô thị cung cấp cho nông thôn. 2.1.3. Đào tạo nguồn nhân lực, chủ trương chủ yếu cho đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Theo giáo trình kinh tế lao động “Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định và chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một số công việc nhất định. Đào tạo gồm đào tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến thức chuyên nghiệp”. Theo quá trình quản trị nhân lực đào tạo được biểu hiện là các hoạt động nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện tốt hơn chức năng nhiệm vụ của mình. Với nguồn nhân lực thì đào tạo luôn đi liền với phát triển. Theo nghĩa rộng: phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động. Theo nghĩa hẹp: phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức hoặc phát triển khả năng nghề nghiệp của họ (giáo trình QTNL). Một cách định nghĩa khác : Phát triển được hiểu là quá trình làm tăng kiến thức, kỹ năng, năng lực và trình độ của cá nhân người lao động để họ hoàn thành công việc ở vị trí cao hơn trong nghề nghiệp của bản thân họ (theo giáo trình KTLĐ) Phát triển xét trên phạm vi phát triển con người thì đó là sự gia tăng giá trị cho con người về cả tinh thần, đạo đức, tâm hồn, trí tuệ, kỹ năng…lẫn thể chất. Phát triển nguồn lực con người nhằm gia tăng các giá trị ấy cho con người, làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội. Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm 2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn được cụ thể hoá là: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức khoa học kỹ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiện đại cho nông dân; đào tạo nghề cho bộ phận con em nông dân để chuyển nghề, xuất khẩu lao động; đồng thời tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho cán bộ quản lý, cán bộ cơ sở. Hình thành chương trình mục tiêu quốc gia về đào tạo nghề, phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo hàng năm đào tạo khoảng 1 triệu lao động nông thôn. Thực hiện tốt việc xã hội hoá công tác đào tạo nghề”. Đây là một chủ trương lớn của Đảng nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn. III. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VIỆT NAM. 3.1. Tình hình lao động nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Trong những năm gần đây, dù dã có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực song phần lớn lao động của nước ta vẫn ở nông thôn, hoạt động trong sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ áp đảo (xem bảng 1 và 2). Bảng 1. Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân ngành kinh tế (2004-2008) Nghìn người  2004  2005  2006  2007  Sơ bộ 2008   TỔNG SỐ  41586,3  42526,9  43338,9  44173,8  44915,8   Nông nghiệp và lâm nghiệp  23026,1  22800,0  22439,3  22177,4  21950,4   Thuỷ sản  1404,6  1482,4  1555,5  1634,5  1684,3   Công nghiệp khai thác mỏ  324,4  341,2  370,0  397,5  431,2   Công nghiệp chế biến  4832,0  5248,5  5655,8  5963,4  6306,2   Sản xuất và phân phối điện, khí đốt  137,2  151,4  173,4  197,0  224,6   Xây dựng  1922,9  1998,9  2136,5  2267,8  2394,0   TN; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình  4767,0  4933,1  5114,0  5291,9  5371,9   Khách sạn và nhà hàng  755,3  767,5  783,3  813,9  830,9   Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc  1202,2  1208,2  1213,8  1217,4  1221,7   Tài chính, tín dụng  124,9  156,3  182,8  209,9  220,1   Hoạt động khoa học và công nghệ  25,0  24,5  26,0  26,9  26,9   Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn  129,7  151,4  178,7  216,0  251,5   QLNN; bảo đảm XH bắt buộc  535,6  648,4  716,9  793,2  866,9   Giáo dục và đào tạo  1183,9  1233,7  1300,2  1356,7  1401,4   Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội  344,7  359,7  372,7  384,3  399,8   Hoạt động văn hoá và thể thao  128,8  132,7  134,3  136,4  134,7   Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội  125,9  149,5  171,5  192,9  220,1   Hoạt động phục vụ cá nhân, công cộng và dịch vụ làm thuê  616,1  739,5  814,2  896,7  979,2   Nguồn: Tổng cục thống kê. Bảng 2. Cơ cấu lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế. Nghìn người  2004  2005  2006  2007  Sơ bộ 2008          TỔNG SỐ  100,0  100,0  100,0  100,0  100,0   Nông nghiệp và lâm nghiệp  55,37  53,61  51,78  50,20  48,87   Thuỷ sản  3,38  3,49  3,59  3,70  3,75   Công nghiệp khai thác mỏ  0,78  0,80  0,85  0,90  0,96   Công nghiệp chế biến  11,62  12,34  13,05  13,50  14,04   Sản xuất và phân phối điện, khí đốt  0,33  0,36  0,40  0,44  0,50   Xây dựng  4,62  4,70  4,93  5,13  5,33   TN; sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy và đồ dùng cá nhân và gia đình  11,46  11,60  11,80  11,98  11,96   Khách sạn và nhà hàng  1,82  1,80  1,81  1,84  1,85   Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc  2,89  2,84  2,80  2,76  2,72   Tài chính, tín dụng  0,30  0,37  0,42  0,48  0,49   Hoạt động khoa học và công nghệ  0,06  0,06  0,06  0,06  0,06   Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn  0,31  0,36  0,41  0,49  0,56   QLNN; bảo đảm XH bắt buộc  1,29  1,52  1,65  1,80  1,93   Giáo dục và đào tạo  2,85  2,90  3,00  3,07  3,12   Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội  0,83  0,85  0,86  0,87  0,89   Hoạt động văn hoá và thể thao  0,31  0,31  0,31  0,31  0,30   Các hoạt động Đảng, đoàn thể và hiệp hội  0,30  0,35  0,40  0,44  0,49   Hoạt động phục vụ cá nhân, công cộng và dịch vụ làm thuê  1,48  1,74  1,88  2,03  2,18   Nguồn: Tổng cục thống kê. Qua 2 bảng số liệu cho ta thấy tổng số lao động hoạt động trong các ngành kinh tế thuộc lĩnh vực nông nghiệp (tạm tính, gồm nông lâm nghiệp và thuỷ sản) đến 2008 là 23,647 triệu người, chiếm 52,62% trên tổng số lao động của cả nước. Về cơ cấu lao động như vậy là quá lạc hậu so với các nước phát triển (dưới 10%). Theo Tổ chức Lương nông LHQ (FAO), năm 2005 tỷ lệ lao động nông nghiệp ở nước ta còn quá cao (67%), trong khi đó ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ này thấp hơn nhiều: Thái Lan (56%), Indonesia (48%), Philippines (39%) và Malaysia (18%); Theo số liệu tại bảng 1, tỷ lệ này có sai lệch (khoảng 57,1%) nhưng vẫn cao hơn so với các nước đó. Về năng suất lao động của lao động ngành nông nghiệp cũng rất thấp, dù đã tăng từ 4 triệu đồng/người năm 2000 lên 12,2 triệu đồng/người năm 2008 (tăng 3.05 lần trong 8 năm), song so với bình quân của tất cả các ngành kinh tế (năm 2008: 32,9 triệu đồng/người/năm) là quá thấp, mức chênh lệch lên tới gần 2,7 lần. Nguyên nhân lao động nông nghiệp có năng suất thấp là do sản xuất nông nghiệp chủ yếu ở quy mô nhỏ; Trong những năm qua, mặc dù diện tích đất nông nghiệp có tăng lên, nhưng do quá trình đô thị hoá, đất phát triển công nghiệp và các nhu cầu khác không ngừng tăng lên, nên diện tích đất nông nghiệp tăng không đáng kể. Trong khí đó dân số tăng nhanh làm cho đất nông nghiệp bình quân đầu người giảm. Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp chỉ còn 1.224 m2/người (bình quân trên thế giới là 2.500 m2/người). Thấp nhất là khu vực đồng bằng sông Hồng chỉ có 497 m2. Mặt khác, đất nông nghiệp lại phân bổ manh mún. Hiện nay, cả nước có tới hơn 75 triệu thửa ruộng, làm cho sản xuất nông nghiệp rất khó áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hoá, hiện đại hoá để sản xuất mang tính hàng hoá. Đồng thời trình độ công nghệ lạc hậu, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở khu vực nông thôn cao (xem bảng 3). Bảng 3. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2008 phân theo vùng(*)  Tỷ lệ thất nghiệp  Tỷ lệ thiếu việc làm    Chung  Thành thị  Nông thôn  Chung  Thành thị  Nông thôn   CẢ NƯỚC  2,38  4,65  1,53  5,10  2,34  6,10   Đồng bằng sông Hồng  2,29  5,35  1,29  6,85  2,13  8,23   Trung du và miền núi phía Bắc  1,13  4,17  0,61  2,55  2,47  2,56   Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung  2,24  4,77  1,53  5,71  3,38  6,34   Tây Nguyên  1,42  2,51  1,00  5,12  3,72  5,65   Đông Nam Bộ  3,74  4,89  2,05  2,13  1,03  3,69   Đồng bằng sông Cửu Long  2,71  4,12  2,35  6,39  3,59  7,11                         (*) Số liệu sơ bộ.     Nguồn: Tổng cục thống kê.   Đặc biệt là trình độ tay nghề của lao động nông nghiệp quá thấp. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ tác động mạnh đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Khoa học, công nghệ trực tiếp giúp nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp... Nhưng do lao động nông thôn Việt Nam qua đào tạo nghề còn ít nên sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, đa số chưa đủ khả năng tiếp thu và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Số lao động ở khu vực nông thôn qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp, chỉ 17,65% trong năm 2006, và tăng lên 18,68% vào năm 2007. (Song theo Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, Cao Đức Phát, năm 2009 tỷ lệ lao động ở nông thôn đã được qua đào tạo chỉ đạt 16%, trong tổng số 25 triệu nông dân). 3.2. Xu thế vận động của lao động khu vực nông nghiệp, nông thôn Với tốc độ phát triển đô thị nhanh trong những năm qua, các khu đô thị luôn được mở rộng, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế và dịch vụ tại đô thị đã tạo sức hút lớn đối với lao động từ nông thôn. Quá trình này diễn ra cũng đồng nghĩa với việc lao động đang dịch chuyển rất mạnh mẽ từ lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ. Theo số liệu từ năm 2007, Việt Nam có 34,8 triệu lao động ở khu vực nông thôn (chiếm 74,5%). Tuy nhiên, tỷ lệ này đang biến đổi theo hướng tích cực, tăng tỷ lệ lao động làm việc trong các lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ lệ lao động trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp (năm 2006, lao động làm việc trong nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp là 23,2 triệu người (chiếm 69%). Năm 2007 còn 21,7 triệu người (chiếm 62,5%), giảm 6,5%). Xu thế này là tất yếu trong quá trình phát triển của các nước đang phát triển. Việt Nam chúng ta cũng vậy. Song điều cần quan tâm ở đây là sự chuyển dịch này diễn ra không như mong muốn. Thể hiện ở việc phần lớn lao động chuyển từ nông thôn ra thành thị và chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ là lao động chưa qua đào tạo, chưa có tay nghề cao; vì vậy họ là những người phải chấp nhận mức thu nhập thấp, công việc bếp bênh không ổn định, rất dễ thất nghiệp và buộc phải quay lại khu vực nông thôn và chấp nhận làm nông nghiệp (dù thu nhập rất thấp). Tâm lý của các lao động chuyển từ khu vực nông nghiệp, nông thôn sang thành thị và khu vực kinh tế phi nông nghiệp, là không ổn định, họ không dời bỏ hẳn được nông nghiệp nông thôn. Hiện tượng này lý giải cho tỷ lệ thiếu việc làm (bán thất nghiệp) ở khu vực nông thôn lên tới 6,1%. Theo tác giả Bùi Quang Bình - Đại học kinh tế Đà Nẵng, năm 2002 số người không có việc làm ở nông thôn (theo quy đổi) lên tới 7,5 triệu người. Các vấn đề nói trên nói lên là sự chuyển dịch đó là không có tính bền vững, dễ đẩy xã hội nông thôn đến sự xáo trộn và thiếu an toàn, đặc biệt nghiêm trọng hơn trong trường hợp gặp phải các cú sốc bất thường như khủng hoảng kinh tế. Trong lúc đòi hỏi nguồn nhân lực cao để đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp nông thôn thì sức hút của khu vực này lại kém hấp dẫn. Vì vậy việc giữ được lao động có tay nghề trình độ cao lại nông thôn nông nghiệp và từ khu vực đô thị về là khá yếu ớt. Tình hình đó làm trầm trọng hơn sự yếu kém của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn, tạo sức ép lớn cho công tác đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn. 3.3. Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 3.3.1. Khó khăn trong phát triển nguồn nhân lực cho nông thôn, nông nghiệp và sức ép của các khó khăn đó cho công tác đào tạo. Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong những năm qua luôn được quan tâm và ngày càng được quan tâm. Ở đây ta cũng cần phân biệt rõ, nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn không chỉ nằm trong số đối tượng là nông dân. Đó là tất cả lao động ở đầy đủ các lĩnh vực kinh tế, quản lý. Vì nông thôn chứa đựng tất cả các yếu tố về kinh tế, văn hoá, xã hội, sản xuất và kinh doanh (nông lâm ngư ngiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ). Xét về nguồn nhân lực cho nông thôn: Nông thôn Việt Nam cũng như nông thôn của các nước đang phát triển, trong đó chứa đựng toàn bộ các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Nông thôn không chỉ đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cho nông lâm ngư nghiệp, bởi vì nông thôn không chỉ có nông nghiệp mà có đầy đủ các ngành thuộc nông nghiệp và dịch vụ. Vì vậy đòi hỏi cần phải có đầy đủ nhân lực có chất lượng cho cả công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Song tâm lý phổ biến của các lao động đã được đào tạo có chất lượng cao không muốn về nông thôn, họ bám trụ ở đô thị để có cơ hội việc làm và mức lương cao hơn. Tâm lý đó được tạo ra bởi thực tế khách quan là nông thôn không có đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật để sử dụng người lao động tay nghề cao, các cá nhân ít có cơ hội thăng tiến về nghề nghiệp cũng như phát huy được tính năng động sáng tạo; mặt khác là do sự ít đa dạng về sản xuất và hoạt động kinh doanh, sự không hoàn thiện của sản xuất dẫn đến việc chỉ dừng lại ở nhu cầu sử dụng lao động chân tay đơn giản, không có nhu cầu sử dụng lao động kỹ thuật cao và phức tạp, thành ra người có kiến thức và tay nghề ở nông thôn trở nên bị thừa một cách bất đắc dĩ. Xét riêng trong lĩnh vực lao động trong nông lâm ngư nghiệp cũng bị giới hạn bởi đặc điểm của nông nghiệp nước ta: nhỏ lẻ, manh mún và giản đơn. Thực tế nông nghiệp nước ta vẫn rất thiếu lao động tay nghề cao cho phát triển, nhưng sự phát triển nông nghiệp quá chậm lại làm cản trở công tác đào tạo nghề. Ví dụ đơn giản như để có nhiều người làm cơ khí nông nghiệp thì nông nghiệp phải sử dụng nhiều máy móc thiết bị cơ giới; để sử dụng nhiều máy móc cơ giới thì đồng ruộng phải đủ lớn về quy mô diện tích. Song ở nước ta ruộng đất manh mún, toàn mảnh nhỏ nên không cần máy móc, từ đó máy không có nhiều dẫn đến không có người có nhu cầu được đào tạo về cơ khí nông ngh