Trong những năm gần đây, những biến đổi về nên kinh tế thế giới nói chung 
và Việt Nam nói riêng có những chuyển biến mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng rất 
nhanh. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã kéo theo nhu cầu sử dụng 
năng lượng tăng cao, đặc biệt là việc sử dụng năng lượng hóa thạch ( dầu mỏ, 
than đá, than bùn, khí tự nhiên ). Và một trong những năng lượng hóa thạch 
được sử dụng nhiều nhất trên thế giới đó là dầu mỏ. Hiện nay, dầu mỏ là một 
năng lượng chưa thể thay thế được ở tất cả các nước trên thế giới. Việc sử dụng 
dầu mỏ trong phát triển các ngành công nghiệp làm cho trữ lượng dầu mỏ trên 
thế giới ngày càng cạt kiệt. Bên cạnh đó, việc khai thác và sử dụng dầu mỏ chưa 
hợp lí, khoa học kĩ thuật chưa đồng bộ đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường 
sống của con người.
Môi trường sống đã và đang trở thành một trong những vấn đề được quan 
tâm nhất và cũng là một trong những thách thứ c lớn nhất của nhân loại. Bởi lẽ, 
môi trường sống gắn bó với cuộc sống của con người, cũng như với sự tồn tại 
và phát triển của xã hội. Và các nhà khoa học, các chính sách phát triển, cải 
thiện môi trường vẫn chưa triệt để, dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng lớn 
và sâu sắc hơn. Đặc biết thời gian qua ô nhiễm môi trường do dầu mỏ ngày 
càng tăng cao và đã ở mức báo động, nguyên nhân chủ yếu là do việc sử dụng 
và không có biện pháp xử lý đối với các chất thải trong quá trình sử dụng nhiên 
liệu. Và một trong số đó chính là các chất thải từ việc sử dụng dầu mỏ trong các 
ngành công nghiệp.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 24 trang
24 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 11543 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dầu mỏ và môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
1 
MỞ ĐẦU 
Trường Đại Học Mỏ - Địa Chất 
Khoa : Dầu Khí 
Bộ môn : Hóa học dầu mỏ & khí tự nhiên 
***&*** 
BÀI TIỂU LUẬN 
Vấn đề : DẦU MỎ VÀ MÔI TRƯỜNG 
 Họ tên sinh viên: Lê Xuân Phúc 
 Mã sinh viên : 0964040114 
 Lớp : ĐH Lọc hóa dầu K12B – Thanh Hóa 
 Giảng viên hướng dẫn : Ths. Ngô Hà Sơn 
Thanh Hóa, tháng 04 năm 2013 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
2 
 Trong những năm gần đây, những biến đổi về nên kinh tế thế giới nói chung 
và Việt Nam nói riêng có những chuyển biến mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng rất 
nhanh. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã kéo theo nhu cầu sử dụng 
năng lượng tăng cao, đặc biệt là việc sử dụng năng lượng hóa thạch ( dầu mỏ, 
than đá, than bùn, khí tự nhiên… ). Và một trong những năng lượng hóa thạch 
được sử dụng nhiều nhất trên thế giới đó là dầu mỏ. Hiện nay, dầu mỏ là một 
năng lượng chưa thể thay thế được ở tất cả các nước trên thế giới. Việc sử dụng 
dầu mỏ trong phát triển các ngành công nghiệp làm cho trữ lượng dầu mỏ trên 
thế giới ngày càng cạt kiệt. Bên cạnh đó, việc khai thác và sử dụng dầu mỏ chưa 
hợp lí, khoa học kĩ thuật chưa đồng bộ đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường 
sống của con người. 
 Môi trường sống đã và đang trở thành một trong những vấn đề được quan 
tâm nhất và cũng là một trong những thách thức lớn nhất của nhân loại. Bởi lẽ, 
môi trường sống gắn bó với cuộc sống của con người, cũng như với sự tồn tại 
và phát triển của xã hội. Và các nhà khoa học, các chính sách phát triển, cải 
thiện môi trường vẫn chưa triệt để, dẫn đến ô nhiễm môi trường ngày càng lớn 
và sâu sắc hơn. Đặc biết thời gian qua ô nhiễm môi trường do dầu mỏ ngày 
càng tăng cao và đã ở mức báo động, nguyên nhân chủ yếu là do việc sử dụng 
và không có biện pháp xử lý đối với các chất thải trong quá trình sử dụng nhiên 
liệu. Và một trong số đó chính là các chất thải từ việc sử dụng dầu mỏ trong các 
ngành công nghiệp. 
 Trong bài tiểu luận này, với lượng kiến thức mà em đã được học, cùng với 
sự tham khảo một số tài liệu liên quan, em trình bày vấn đề “ Dầu mỏ & môi 
trường”, đây được xem là một trong những vấn đề cấp thiết của thế giới hiện 
nay. 
 Em xin chân thành cảm ơn thầy đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức 
cho em và các bạn trong thời gian thầy về Thanh Hóa ! 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
3 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1 . Bài báo cáo các vấn đề về ô nhiễm môi trường 
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 
2 . Đề tài bảo vệ môi trường 
Nhóm sinh viên lớp Nuôi trồng thủy sản – Đh Nông nghiệp 
3 ) Lợi ích chung và và lợi ích riêng 
Nhà báo Đinh Thị Ánh Hồng 
4 ) Môi trường và đời sống con người 
Luận văn Ths của Thầy Lưu Quốc Trí 
5 ) Địa chất và môi trường 
NXB Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh – Huỳnh Thị Minh Hằng 
6 ) Một số vấn đề về môi trường Toàn cầu và Việt Nam 
Giáo sư – Tiến sỹ Võ Quý 
7) Một số website : 
- vietbao.vn 
- pvc.vn 
- vnexpress.net 
- vietbao.vn 
-… 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
4 
NỘI DUNG CHÍNH 
MỞ ĐẦU 
I. Cơ sở lý thuyết 
1. Các khái niệm cơ bản 
2. Bản chất và đặc tính của dầu mỏ 
II. Thực trạng ô nhiễm môi trường do dầu mỏ hiện nay 
1. Tình hình ô nhiễm trên thế giới 
2. Tình hình ô nhiễm tại Việt Nam 
3. Ảnh hưởng của ô nhiễm dầu mỏ đối với con người, môi trường biển và sinh vật. 
a. Ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống con người 
b. Ảnh hưởng đến sinh vật và môt trường sinh thái 
c. Thiệt hại về kinh tế để khắc phục ô nhiễm 
III. Nguồn gốc của ô nhiễm dầu mỏ 
1. Do tại nạn của tàu trở dầu đắm trên đại dương 
2. Hoạt động của các cảng biển trong vùng nước ven bờ 
3. Sự cố tràn dầu trên giàn khoan 
4. Ô nhiễm dầu do quá trình khai thác dầu trong thềm lục địa 
5. Ô nhiễm dầu do quá trình chế biến dầu tại các cơ sở lọc dầu ven biển 
6. Do rò rỉ, tháo thải trên đất liền 
7. Do đánh đắm các giàn chứa dầu quá hạn 
8. Do chiến tranh vùng vịnh 
IV. Biện pháp khắc phục và xử lý ô nhiêm môi trương do dầu mỏ 
1. Xử lý dầu bằng biện pháp cơ học 
2. Xử lý bằng phương pháp vi sinh 
3. Xử lý bằng biện pháp hóa học 
 KIẾN NGHỊ 
 KẾT LUẬN 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
5 
I. Cơ sở lý thuyết 
1. Các khái niệm cơ bản 
Dầu mỏ hay còn gọi là dầu thô là một chất lỏng đặc sánh màu đen hay 
ngả lục. Dầu thô tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong lớp vỏ trái đất. 
Dầu mỏ là các chất hữu cơ tồn tại ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là các 
hydrocacbon, thuộc gốc ankal, có thành phần rất đa dạng. 
Nhiên liệu hóa thạch là nhiên liệu được tạo thành bởi quá trình phân hủy 
kỵ khí của các loài sinh vật bao gồm sinh vật phù du, động vật phù du lắng 
đọng xuống đáy biển với khối lượng lớn và môi trường không có oxy . Bị chôn 
vùi cách đây hơn 300 triệu năm, các loại nhiên liệu này có chứa hàm lượng 
cacbon và hydrocacbon với hàm lượng cao 
Môi trường tự nhiên bao gồm tất cả các yếu tố thiên nhiên, hóa học, sinh 
học, vật lý, sinh vật sống, không sống xảy ra tự nhiên trên Trái đất. Nó là một 
môi trường tương tác giữa tất cả các loài sinh vật sống. 
Ô nhiễm môi trường là tình trạng môi trường bị ô nhiễm bởi các chất hóa 
học, sinh học, bức xạ, tiếng ồn, … làm ảnh hưởng tới sức khỏe của con người, 
các cơ thể sống khác. Ô nhiễm môi trường chủ yếu là do con người và cách 
quản lý của con người. 
2. Bản chất và đặc tính của dầu mỏ 
Dầu thô và những thành phần rút ra từ dầu thô chủ yếu gồm những cacbua 
hydro tức là những chất chứa cacbon và hydro. Người ta phân làm các loại: 
Người ta phân làm các loại: 
- Các cacbua hydro không vòng bão hòa còn gọi là cacbua paradin có công 
thức chung là: CnH2n+2 như metan (CH4), etan (C2H6),… 
- Các cacbua hydro vòng bão hòa hay cacbua naphten có công thức 
chung là: CnH2n như cyclopentan (C5H10), cyclohexan (C6H12),… 
- Các cacbua hydro vòng không bão hòa hay cacbua hydro thơm có công 
thức chung là: CnH2n-6 như bezen (C6H6), toluen (C7H8),… 
Bên cạnh những chất thuộc 3 nhóm trên thường hay gặp nhiều nhất 
trong các loại dầu mỏ ta cũng có thể gặp: 
Các cacbua hydro không vòng bão hòa gọi là olefin có công thức chung 
là: CnH2n . 
- Các cacbua hydro không bão hòa dietylen có khi còn gọi là diolefin có công 
thức chung là: CnH2n+2 . 
- Các cacbua hydro không bão hòa axetylen có công thức chung là: CnH2n-2 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
6 
Các cacbua hydro hình thành từ sự phối hợp các nhân và chuỗi có thể ghép 
chúng vào cùng nhiều họ nêu trên. 
 Nếu các cacbua hydro thuộc những lớp sau này chỉ thể hiện với tỷ lệ rất nhỏ 
trong các dầu mỏ tự nhiên thì chúng lại giữ một vai trò quan trọng trong các sản 
phẩm thu được bởi quá trình biến đổi phân tử của những dầu mỏ tự nhiên và 
nhất là bằng phương pháp cracking. 
 Nói chung các loại dầu mỏ thì thường được các nhà lọc dầu xếp thành 3 lớp: 
parafin, naphten hay atphan và hỗn hợp. 
 Các loại dầu mỏ có gốc parafin mặc dù có thể chứa một lượng nhỏ những sản 
phẩm atphan được đặc trưng bởi sự có mặt chủ yếu của các cacbua hydro thuộc 
nhóm “không vòng bão hòa” kể cả những loại cacbon nặng nhất. Các loại dầu 
thô đó thường chứa tỷ lệ cao những sản phẩm nhẹ và chất parafin đặc, thường 
được hòa tan trong các sản phẩm nhẹ nhưng người ta có thể trích xuất bằng 
nhiều phương pháp khác nhau tùy theo bản chất kết tinh của nó. 
 Các loại dầu có đặc tính naphten mạnh thường hiếm, trong khi đó những loại 
hỗn hợp chứa tỷ lệ quan trọng những cacbua hydro và cùng chứa tỷ lệ cao 
không kém các cacbua hydro parafin thì lại rất phổ biến. 
 Tất cả các loại dầu mỏ đều chứa những cacbua hydro thơm theo những tỷ lệ 
biến thiên nhưng nói chung khá thấp. 
 Mặc dù mức độ đa dạng về thành phần khá lớn nhưng các loại dầu mỏ vẫn 
chỉ chứa một tỷ lệ gần như không đổi về cacbon (từ 82-85%) và hydro (từ 11-
13%), ngoài những hợp chất chủ yếu đó, trong dầu mỏ còn có nitơ, tồn tại dưới 
dạng tự do, được hòa tan trong các cacbua hydro lỏng hay dưới dạng những hợp 
chất hữu cơ khác nhau. Dầu mỏ có oxy bao giờ cũng thể hiện dưới dạng những 
hợp chất chứa oxy gọi là axit naphtenic. 
 Nhiều loại dầu thô còn chứa cả cacbon tự do, photpho, lưu huỳnh khi thì 
dưới dạng tự do khi thì dưới dạng sunfua hydro, có khi dưới dạng những hợp 
chất hữu cơ. Hàm lượng 2% đã là cao (dầu thô của Irắc), nhưng cũng có một 
vài loại dầu thô chứa đến 5-6%. Cuối cùng bao giờ dầu mỏ cũng chứa một ít 
nước và dưới dạng những tạp chất khoáng như canxi, magie, silic, nhôm, sắt, 
kiềm và vanađi. 
 Các dầu mỏ tự nhiên xét theo tính chất vật lý thì đa dạng chẳng khác gì xét 
theo thành phần hóa học của chúng. Một số thể hiện dưới dạng lỏng, một số 
dưới dạng nhớt. Các loại lỏng thường sáng màu, có màu vàng ngả sang màu đỏ 
hay màu nâu, đôi khi gần như không màu. Các loại nhớt thường sẫm màu đến 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
7 
màu đen qua màu xanh. Sự hấp dẫn theo mao dẫn của các thể xốp phụ thuộc 
vào trọng lượng và vào thành phần hóa học. Màu của dầu biến thiên tùy theo 
bản chất của các thành phần bay hơi. 
 Một trong những đặc tính chính của các loại dầu thô, quyết định hàm lượng 
của chúng về các sản phẩm nhẹ dễ bay hơi nhất chính là tỷ trọng của chúng mà 
thông thường được biểu thị bằng độ API viết theo chữ đầu của viện dầu mỏ Mỹ 
( American Petrolium Institute) là viện đã sáng lập ra thang chia độ đó. 
 Dầu mỏ có tỷ trọng rất biến thiên. Một vài loại dầu mỏ mà người ta thấy ở 
Mêhico, Vênêzuela, Sieilia hay Ai Cập có tỷ trọng hơi thấp hơn 1 (100 API) đôi 
khi cao hơn. Một vài loại dầu mỏ khác thì ngược lại lại rất nhẹ, như loại dầu thô 
Hassi Messaold (D = 0,80 tức là 450API) hay nhẹ hơn nữa như loại dầu ngưng 
Hassi R’Mel (D = 0,73 tức là 620 API). 
 Dầu mỏ dễ hòa tan trong các loại dung môi hữu cơ thông thường. 
 Dưới tác dụng của nhiệt, các loại dầu thô đều bay hơi, nhưng vì chúng là hỗn 
hợp của nhiều chất theo những tỷ lệ biến thiên nên nhiệt độ không giữ nguyên 
trong quá trình bay hơi. 
 Nhiệt độ tăng theo bậc liên tiếp ứng với nhiệt độ sôi của các thành phần khác 
nhau có trong dầu mỏ, về điểm này các loại dầu mỏ được đặc trưng bởi nhiệt độ 
sôi và bởi một đường cong chưng cất, biểu thị tỷ lệ phần trăm bay hơi tùy theo 
nhiệt độ, cuối cùng bởi một điểm cuối tức là nhiệt độ tới đó toàn bộ dầu thô đã 
bay hơi hết. Thực ra dưới áp suất khí quyển thì không thể đạt được điểm cuối 
mà không xảy ra hiện tượng phân giải. Dưới áp suất khí quyển, đối với một loại 
dầu thô thì lúc bắt đầu sôi có thể xảy ra ở nhiệt độ sôi thấp hơn 250C, đối với 
những loại dầu thô nặng thì nhiệt độ lúc bắt đầu sôi là: 1000C. 
 Như vậy ta thấy rằng các loại dầu thô được đặc trưng chủ yếu bởi bản chất 
và những tỷ lệ tương ứng của những cacbua hydro tạo nên chúng. Từ những số 
liệu đó toát ra tất cả những đặc tính vật lý và hóa học mà chúng vừa nhắc lại 
một cách rất ngắn gọn. 
II. Thực trạng ô nhiễm môi trường do dầu mỏ hiện nay 
1. Tình hình ô nhiễm trên thế giới 
 Ô nhiễm môi trường do dầu mỏ hiện nay trên toàn thế giớ đã lên đến mức 
báo động. Ô nhiễm do dầu mỏ chủ yếu là ô nhiễm môi trường biển và xảy ra ở 
nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các khu vực, đất nước dầu mỏ như : Nga, 
Nigeria, Peru, Nam Phi, Canada, Vịnh Mexico, vịnh Ba Tư, Địa Trung Hải, 
Biển Đông…Đặc biệt là ô nhiễm do các vụ tràn dầu đã trở thành thảm hoạ đối 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
8 
với môi trường. Ước tình hàng năm có hàng trăm ngàn vụ tràn dầu xảy ra trên 
thế giới bên cạnh rất nhiều các sự cố khác gây ô nhiễm môi trường. Đại dương 
và đất liền ven biển đã và đang gánh chịu nhiều thảm họa do ô nhiễm dầu mỏ 
gây ra. 
 Năm 2010, Thảm họa tràn dầu trên vịnh Mexico đã làm điêu đứng các nhà 
chức trách Mỹ, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường. Nó được coi 
là vụ tràn dầu tồi tệ trong lịch sử. Không ai đoán được đã có bao nhiêu dầu tràn 
ra trước khi ba đường ống chính được ngăn phun dầu. Nhiều người nhận định, 
quy mô của vụ tràn dầu còn lớn hơn thảm họa Exxon Valdez. Có 5.000 tới 
60.000 thùng dầu mỗi ngày: đây là con số dầu tràn ra từ mỏ dầu Deepwater 
Horizon với tổng lượng dầu tràn là 19 triệu tới 39 triệu gallon (tương ứng 86 
triệu đến 177 triệu lít dầu 
 Tổ chức Hòa bình Xanh cũng đã khuyến cáo trong cuộc họp tại Bộ Sinh thái 
và Nguồn tài nguyên ở Moscow năm 2012 rằng Nga là nước xảy ra tràn dầu 
nhiều nhất với hơn 20.000 vụ mỗi năm, chiếm một nửa tổng số các vụ tràn dầu 
trên thế giới. 
 Một vụ tràn dầu tại Nga 
 Đứng thứ nhì về sự cố tràn dầu trên thế giới là Nigeria với từ 3.000 đến 
4.000 vụ mỗi năm nhưng thường có nguyên nhân từ nạn phá hoại. 
 Ở Peru, ngày 25/3/2013, Chính phủ đã ban bố tình trạng môi trường khẩn cấp 
trong vòng 90 ngày tại khu vực rừng già Amazon, do ô nhiễm dầu. 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
9 
Khai thác dầu mỏ tại một khu vực thuộc lưu vực sông Pastaza (rừng Amazon) 
Theo ông Punga, tình trạng ô nhiễm tại khu vực rừng Amazon bắt nguồn từ việc 
khoan dầu do Công ty Pluspetrol của Argentina thực hiện, khiến môi trường nơi 
đây có sự gia tăng về hàm lượng chì, bari và crôm cũng như các thành phần 
khác có trong dầu mỏ. Bộ phận thổ dân sinh sống tại đây cũng đã phàn nàn về 
thực trạng trên trong nhiều năm. 
2. Tình hình ô nhiễm tại Việt Nam 
 Vấn đề ô nhiễm dầu trên biển Đông nói chung và ô nhiễm dầu trên biển 
Việt Nam nói riêng cũng không nằm ngoài lo lắng của thê giới. 
Vào những ngày cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm 2007, tại khu vực biển Trung 
Trung Bộ từ Hội An tới tận Quảng Bình đã xuất hiện hiện tượng dầu tràn trôi 
dạt vào các bãi biển Trung Trung Bộ. Hội An là tâm điểm của dầu loang, với 
xuất phát của các vết dầu hầu hết ở phía đông bắc Cù Lao Chàm. Các bãi biển 
lân cận ở Đà Nẵng và Điện Bàn cũng thuộc Quảng Nam, ảnh hưởng dầu nhưng 
nhẹ hơn.Vệt dầu cũng kéo dài dọc các bờ biển Thừa Thiên - Huế, Quảng Trị, 
Quảng Ngãi, Phú Yên với mức độ ít. 
 Khu vực phát hiện đầu tiên là bãi Cửa Đại, Hội An. Theo báo cáo của cơ 
quan thường trực tìm kiếm cứu nạn tỉnh Quảng Nam, Trung tâm Ứng phó sự cố 
tràn dầu khu vực 2 và Bộ Tham mưu Bộ đội Biên phòng, từ chiều 30/1 đến sáng 
2/2/2007, dọc bờ biển từ xã Điện Ngọc (huyện Điện Bàn) đến xã Tam Hoà 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
10 
(huyện Núi Thành, Quảng Nam) và bãi biển Non Nước (quận Ngũ Hành Sơn, 
Đà Nẵng) đã xuất hiện dầu màu đen, đóng thành từng mảng giống nhựa đường 
trôi dạt vào bờ biển, tập trung nhiều ở ven biển phường Cửa Đại và phường 
Cẩm Sơn (Hội An, Quảng Nam). Ở Hội An, hiện tượng dầu tràn lên bờ xảy ra 
từ chiều ngày 30/1/2007, suốt dọc tuyến bờ biển từ Điện Dương đến Hội An đất 
cán đều bị quắt lại, vón cục. Đến sáng hôm sau thì cả vùng này dày đặc dầu kết 
thành hình khối đặc quánh, đen kịt và có mùi hắc. Nhiều nhà nghỉ, khách sạn 
lớn đã thuê người và vận động thanh niên, dân phòng, bộ đội xuống thu dọn, thị 
uỷ Hội An cũng huy động nhiều thuyền nhỏ đi vớt những mảng dâu vón cục 
ngoài biển, không để tấp vào bờ. Trong 5 ngày, hàng trăm tấn dầu đã được thu 
vào hơn 5000 bao ni lông lớn, mỗi bao chứa được 50kg dầu. Rất nhiều du 
khách đã trả phòng trước thời hạn, khách ở lại chỉ trở ra tắm biển khi bãi đã 
tương đối sạch sẽ. 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
11 
Hình ảnh người dân miền Trung Việt Nam gom vết dầu loang dạt vào bờ 
Vụ việc tràn dầu không chỉ ở bờ biển miền Trung mà còn xảy ra ở bờ biển miền 
Bắc và miền Nam của Việt Nam vào năm 2007 đã thu hút mối quan tâm sâu sắc 
của dư luận. Nguồn gốc dầu loang tại vùng biển phía Bắc chưa được công bố 
xuất phát từ quốc gia nào, song đã được khẳng định là chỉ xuất phát từ một hoạt 
động. Trong khi đó, nguồn gốc dầu loang tại vùng biển phía Nam được khẳng 
định là do việc súc rửa, xả dầu từ các hoạt động của tàu thuyền trên biển (cả 
trong và ngoài vùng biển VN) và từ các mỏ khai thác dầu, không loại trừ các 
mỏ của VN, nguồn dầu loang cũng có thể xuất phát từ các mỏ dầu ở Philippines 
do theo dòng hải lưu lan đến. Những nghi ngờ về loại dầu gây ô nhiễm bờ biển 
miền Trung đã và đang từng bước được khẳng định. Dầu ô nhiễm đã được xác 
định là dầu thô. Đây là loại dầu tương tự nhựa đường gặp nước biển lạnh thì 
vón cục, khi lên bờ gặp tiết trời nóng ấm thì dẻo, mềm và dễ tan chảy qua kẽ 
tay. 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
12 
Ngoài ra, vùng biển Nam Bộ, một số xã ven biển Cà Mau cũng có phát 
hiện vết dầu loang, xuất hiện dầu vón cục tấn công biển Phú Quý… 
Như vậy, biển Đông và Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều thách thức 
trong bảo vệ an toàn môi trường trước nguy cơ rò rỉ và tràn dầu. 
3. Ảnh hưởng của ô nhiễm dầu mỏ đối với con người, môi trường biển và sinh 
vật. 
 Tràn dầu ảnh hưởng lên các loài sinh vật biển ở sâu trong đại dương và các 
loài sinh sống gần bờ. 
 Ảnh hưởng của các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí đối với môi 
trường biển không lớn vì đã có những công ước quốc tế kiểm soát vệc đổ thải 
từ các giàn khoan. 
 Dầu tràn có thể gây ảnh hưởng kinh tế nghiêm trọng cho các hoạt động ven 
biển và cho những người sử dụng biển. Các hợp chất trong dầu tràn tác động 
như một chất độc đối với sinh vật, nếu tồn tại trong môi trường một thời gian 
dài thì chúng sẽ phá hủy hệ sinh thái. 
c. Ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống con người 
 Khi dầu xâm nhập vào các bờ biển đã tạo thành các váng và lưu động trên các 
bãi biển. Dầu nhiễm bẩn các khu biển giải trí sẽ làm cho mọi người lo lắng và 
cản trở các hoạt động nghỉ ngơi như tắm biển, bơi thuyền, lặn, thả neo, du lịch. 
Dầu tràn 
Hóa học dầu mỏ và khí tự nhiên Ths. Ngô Hà Sơn 
Sinh Viên : Lê Xuân Phúc 
Lớp Lọc Hóa Dầu K54TH . Mã Sinh Viên : 0964040114 
13 
Các khách sạn, nhà hàng và những người sống nhờ vào du lịch sẽ bị giảm thu 
nhập. Ngay cả khi đã bỏ ra nhiều công sức làm sạch, khôi phục lại thiên nhiên 
thì các khu vực ô nhiễm này cũng sẽ mất rất nhiều thời gian để khôi phục niềm 
tin nơi công chúng. Các nhà máy sử dụng nước biển làm lạnh cũng có thể bị 
dầu làm ảnh hưởng, gây tắc nghẽn, làm giảm năng suất máy. 
 Dầu có thể trực tiếp làm tổn hại các tàu thuyền, ghe lưới đánh cá và dụng cụ 
nuôi trồng thủy sản cũng như gián tiếp làm suy giảm năng suất đánh bắt và nuôi 
trồng do lo lắng không tiêu thụ được những sản phẩm bị sản xuất trong khu vực 
bị ô nhiễm. Ngư dân bị thiệt hại nặng nề khi dầu loang, dầu tràn phá hủy toàn 
bộ hệ thống nuôi trồng thủy sản. 
 Ngoài ra, ảnh hưởng của các chất phân giải hóa học khi làm sạch khu vực 
nhiễm bẩn cũng có tác động gián tiếp hay trực tiếp đối với các loài động thực 
vật và các hoạt động của con người trong vùng bị ô nhiễm dầu. 
d. Ảnh hưởng đến sinh vật và môt trường sinh thái 
Sinh vật biển bị ảnh hưởng nặng nề không chỉ bởi sự nhiễm bẩn hóa học mà 
còn do các thành phần độc tố trong dầu. Hàng năm, trên bờ biển nước Anh có 
khoảng 250000 con chim bị chết. Chỉ tính riêng vụ đắm tàu Torrey Canyon đã 
có 25000 con chim thuộc 17 loài khác nhau thiệt mạng 
 Dầu xua đuổi các đàn các biển như đã làm biến mất loài cá Trích vùng đảo 
Hokaido (Nhật Bản). Các