Đề án Chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay

Lãi suất cơ bản, vấn đề nóng bỏng trong thời gian qua đã trở thành đề tài cho nhiều bài báo khi mà nền kinh tế tài chính toàn cầu rơi vào khủng hoảng. Với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất đã và đang được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và tăng trưởng kinh tế. trong từng thời kỳ nhất định. Việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc về NHNN. Với trọng trách to lớn đó NHNN đã thường xuyên điều chỉnh lãi suất cho phù hợp, làm cơ sở ổn định hoạt động cho các NHTM. Chính vì vậy mà việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của NHNN trong thời gian qua đã tác động nhiều mặt đến hệ thống NHTM trên cả nước. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự trên, em mạnh dạn trình bày đề tài: “Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay”. Đến đây, em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Th.S Bùi Thị Thanh Ngân, gia đình cùng nhiều bạn bè khác đã giúp em hoàn thành đề án này. Kết cấu đề án gồm 3 phần: • Phần I: Lý luận chung. • Phần II: Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ 2008 đến nay. • Phần III:Những vấn đề gặp phải và một số đề xuất trong thời gian tới

doc30 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3203 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 Phần I: LÝ LUẬN CHUNG 3 1.1 Khái niệm và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế 3 1.1.1 Chính sách lãi suất 3 1.1.2 Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế 4 1.2 Cơ sơ điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước 4 1.2.1. Lãi suất cơ bản 4 1.2.2. Lãi suất tái chiết khấu 6 1.2.3. Lãi suất tái cấp vốn 7 Phần II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 7 2.1 Khủng hoảng tài chính năm 2008 và thực trạng nền kinh tế Việt Nam 8 2.1.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 8 2.1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ cuộc khủng hoảng đến nay 9 2.1.2.1. Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 2.1.2.2. Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng 10 2.1.2.3. Đối với hoạt động xuất khẩu 10 2.1.2.4. Đối với vốn đầu tư nước ngoài 11 2.2 Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 15 2.3 Tác động của chính sách lãi suất đến hệ thống Ngân hàng thương mại 18 2.4 Kết quả hoạt động của các Ngân hàng 21 Phần III: NHỮNG VẤN ĐỀ GẶP PHẢI VÀ MỘT VÀI ĐỀ XUẤT CHO THỜI GIAN TỚI 24 3.1. Những vấn đề gặp phải: 24 3.2. Một số đề xuất 27 KẾT LUẬN 31 LỜI MỞ ĐẦU ---(((--- Lãi suất cơ bản, vấn đề nóng bỏng trong thời gian qua đã trở thành đề tài cho nhiều bài báo khi mà nền kinh tế tài chính toàn cầu rơi vào khủng hoảng. Với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất đã và đang được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và tăng trưởng kinh tế... trong từng thời kỳ nhất định. Việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc về NHNN. Với trọng trách to lớn đó NHNN đã thường xuyên điều chỉnh lãi suất cho phù hợp, làm cơ sở ổn định hoạt động cho các NHTM. Chính vì vậy mà việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của NHNN trong thời gian qua đã tác động nhiều mặt đến hệ thống NHTM trên cả nước. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự trên, em mạnh dạn trình bày đề tài: “Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay”. Đến đây, em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Th.S Bùi Thị Thanh Ngân, gia đình cùng nhiều bạn bè khác đã giúp em hoàn thành đề án này. Kết cấu đề án gồm 3 phần: Phần I: Lý luận chung. Phần II: Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ 2008 đến nay. Phần III:Những vấn đề gặp phải và một số đề xuất trong thời gian tới Do giới hạn về trình độ, kinh nghiệm cũng như thời gian tìm hiểu thực tế nên đề án khó lòng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của giáo viên hướng để bài viết được hoàn thiện hơn. Quy Nhơn, ngày tháng 11 năm 2010. Sinh viên thực hiện: Trương Thị Thúy Bình Phần I: LÝ LUẬN CHUNG Khái niệm và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế 1.1.1 Chính sách lãi suất Chính sách lãi suất là một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế. 1.1.2 Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế - Chính sách lãi suất là một trong những sách lược vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia. Sự tác động của chính sách lãi suất ở mỗi quốc gia là khác nhau bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thực trạng của nền kinh tế, mức phát triển của thị trường tiền tệ. - Một chính sách lãi suất phù hợp sẽ làm ổn định thị trường tiền tệ, góp phần kiềm chế được tình trạng lạm phát, kinh tế vĩ mô được điều tiết hợp lý, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong đó có các ngân hàng thương mại được đảm bảo thông qua việc đưa lãi suất huy động của các NHTM trở về mức hợp lý hơn trong mối tương quan giữa tỷ lệ lãi suất và cơ cấu kì hạn, phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn của thị trường, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa người gửi, ngân hàng thương mại và doanh nghiệp vay vốn. Ngược lại, một chính sách lãi suất không phù hợp sẽ làm cho nền kinh tế đi ngược lại với các mục tiêu mà Nhà nước đã định, gây nguy hại đến thị trường tiền tệ và làm cho lợi ích của các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế bị xâm phạm. Bên cạnh đó còn gây khó khăn cho các NHTM trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là các ngân hàng quy mô nhỏ. 1.2 Cơ sơ điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Lãi suất là công cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW sẽ căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất áp dụng trong toàn hệ thống ngân hàng. Thông thường, người ta quy định ba chỉ tiêu cơ bản là lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn. 1.2.1. Lãi suất cơ bản Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng trong cơ chế thị trường. Lãi suất cơ bản do NHTW xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là công cụ để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTW tác động vào thị trường tiền tệ, thúc đẩy, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặc khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ sở hình thành lãi suất thị trường, tức là lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hòa một cách tự nhiên lợi ích của người gửi tiền, của người vay tiền và của tổ chức tín dụng. Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của khách hàng (người gửi tiền và người vay vốn) người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. Điều này có nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các tổ chức tín dụng không được hạ lãi suất một cách tùy tiện và vì yêu cầu phát triển sản xuất, các tổ chức tín dụng không được tăng lãi suất cho vay quá mức. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của các tổ chức tín dụng, tạo khuôn khổ cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, người ta quy định lãi suất cơ bản theo chiều hướng ngược lại đó là quy định lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu. Tuy nhiên vì muốn tạo lợi thế trong cạnh tranh mà nâng lãi suất huy động quá cao hoặc cho vay theo lãi suất quá thấp sẽ gây thiệt hại chung cho toàn hệ thống các tổ chức tín dụng. Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu vốn thông qua hàng loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thông thường. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự kiến, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có lãi cho TCTD, yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kì, rủi ro trong hoạt động tín dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường tiền tệ nói chung, mối tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tương quan giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái… Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định và điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa, lãi suất cho vay tối đa, lãi suất tái chiết khấu của NHTW đối với các tổ chức tín dụng hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu: đây là phương pháp phổ biến được NHTW các nước áp dụng. Do lãi suất này được chủ động công bố và được xem xét, tính toán tương đối thường xuyên nên thực sự đóng vai trò quyết định đối với các mức lãi suất kinh doanh cũng như cung cầu vốn của các TCTD. Nhưng lại mang nặng tính chất điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa: Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHTW công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hóa lãi suất cho vay. Các tổ chức tín dụng sẽ ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa: NHTW công bố một mức lãi suất trần nhưng có thể quy định biên độ phù hợp vời từng loại hình TCTD, thời hạn khác nhau. Lãi suất cơ bản là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng: Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất cho vay giữa các NHTM. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành trên cở sở thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Do vậy, lãi suất liên ngân hàng gắn liền với thị trường nhiều hơn và dễ biến động hơn. Thông thường, lãi suất cơ bản bằng lãi suất liên ngân hàng cộng với một biên độ gồm chi phí quản lý món vay, chi phí rủi ro… Sử dụng lãi suất cơ bản phải linh hoạt tùy vào từng thời điểm như: hạn chế tăng trưởng tín dụng bằng cách tăng lãi suất tiền vay và tăng lãi suất tiền gửi. Biện pháp tăng lãi suất tiền vay nhằm khống chế tình trạng đồng vốn vay được sử dụng tự do trên thị trường. Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút một lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông. Hai biện pháp này sẽ hỗ trợ cho nhau giúp NHNN chủ động “cầm nắm” được thị trường tiền tệ. Nhờ vậy mà góp phần kiềm chế được tình trạng lạm phát, kinh tế vĩ mô được điều tiết hợp lý, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong đó các ngân hàng thương mại được đảm bảo. 1.2.2. Lãi suất tái chiết khấu Khi nền kinh tế phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, NHTW chuyển sang điều hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi suất tái chiết khấu của NHTW. Lãi suất tái chiết khấu tác động và có ý nghĩa hướng dẫn lãi suất thị trường một cách gián tiếp, tức là tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Lãi suất chiết khấu chủ yếu tác động đến cung tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự giảm xuống cho vay chiết khấu sẽ làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung ứng tiền tệ. Còn một sự tăng lên trong cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng cung ứng tiền tệ. Ngoài việc sử dụng làm công cụ để tác động đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ, lãi suất chiết khấu còn được sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính vì NHTW đóng vai trò là người cho vay cuối cùng. NHTW cung cấp hệ thống dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các ngân hàng bị đe dọa phá sản, do đó ngăn chặn những cơn sụp đổ tài chính. Như vậy, lãi suất chiết khấu chính là một công cụ điều hành lãi suất của NHTW sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. 1.2.3. Lãi suất tái cấp vốn Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi tái cấp vốn cho NHTM, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, đồng thời tạo cơ sơ cho NHTM tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán cho họ. NHTW điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn phù hợp với mục tiêu thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu thông. NHTW cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM. Phần II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY) 2.1 Khủng hoảng tài chính năm 2008 và thực trạng nền kinh tế Việt Nam 2.1.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ cũng đã qua nhưng cho đến nay dư âm và tác động của nó vẫn còn. Năm 2008, khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường chứng khoán khuynh đảo. Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm. Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính... đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản đảm bảo để phát hành trái phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh này được đánh giá cao bởi các tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không chỉ dừng lại ở đó, nhiều công ty bảo hiểm, trong đó có AIG, còn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này. Chiến lược trên được đưa ra với mục đích giảm rủi ro cho những khoản vay bất động sản. Tuy nhiên, trái lại nó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn. Những bất ổn từ hoạt động cho vay dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản. 2.1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ cuộc khủng hoảng đến nay Biến cố kinh tế thế giới tác động rõ nét tới độ ổn định và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2008 đã đi qua với lãi suất cao và vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, sụt giảm của TTCK đang tiếp diễn… 2.1.2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế đã làm chậm tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam. Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP dự kiến từ 8,5 – 9%. Tháng 5 năm 2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%, nhưng đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế chỉ là 6,52%. Tổng cục Thống kê cho biết, theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý 1/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý 2, quý 3 và quý 4 của năm nay đã nâng dần lên, lần lượt là 4,46%, 6,04% và 6,9%. Và tính chung cả năm tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, vượt mục tiêu kế hoạch là 5% đã điều chỉnh trước đó. Tính theo khu vực kinh tế, năm 2009, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng trưởng 1,83%; công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%. Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008 nhưng đã vượt mục tiêu 5% của kế hoạch đề ra trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm, và kết quả trên là một thành công lớn. Mặt khác, tốc độ tăng trưởng GDP quý 1 và 2 của năm 2009 thấp hơn quý 1 và 2 của năm 2008, nhưng quý 3/2009 đã tăng cao hơn tốc độ của quý 3/2008 (6,04% so với 5,98%); tương tự quý 4/2009 cũng tăng cao hơn quý 4/2008 (6,9% so với 5,89%). “Điều này cho thấy kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tăng trưởng, chứng tỏ các giải pháp ngắn chặn suy giảm kinh tế triển khai trong năm qua đã phù hợp với tình hình thực thế, đã và đang phát huy hiệu quả tích cực”, Tổng cục Thống kê nhận định 2.1.2.2. Hệ thống tài chính – ngân hàng Khủng hoảng làm mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài chính bên ngoài và với ngân hàng Mỹ gặp khó khăn. Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế giảm, ảnh hưởng đến nợ vay ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của nhiều ngân hàng giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ bị thua lỗ; nợ xấu tăng lên; nên hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam cho đến nay vẫn còn dấu hiệu của sự ảnh hưởng. Cụ thể, sau một giai đoạn thắt chặt trong năm 2008 để giải quyết tình trạng quá nóng, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng đáng kể nhằm hỗ trợ nhu cầu nội địa. Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm một nửa lãi suất với các khoản vay chính sách xuống còn 7% từ giữa năm 2008 đến tháng 2/2009. Cắt giảm lãi suất đối với vay chính sách và hỗ trợ lãi suất đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của ngân hàng. Chỉ số định lượng về chất lượng danh mục đầu tư của ngân hàng (dựa trên thời gian thiếu nợ và nợ lũy tiến) đã cho thấy nợ xấu tăng. Do lãi suất cho vay không được phép cao hơn lãi suất đối với vay chính sách quá 50%, nên mức chênh lệch lãi suất của các Ngân hàng thương mại bị thu hẹp đáng kể. Lãi suất thấp còn gây khó khăn cho chính phủ trong việc phát hành trái phiếu và gây ra tâm lý lưỡng lự của các nhà xuất khẩu khi bán ngoại hối. Nhận ra các nguy cơ đang nổi lên từ chính sách nới lỏng tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước gần đây đã yêu cầu các Ngân hàng thương mại lớn phải giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 25% trong năm 2009. 2.1.2.3. Hoạt động xuất khẩu Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20% đến 21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam trong năm 2008 và cả năm 2009. Khủng hoảng tài chính Mỹ còn tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm. Thực tế những tháng gần đây, với tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm sút, kim ngạch xuất khẩu tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất khẩu suy giảm. Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD giảm so với mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được kim ngạch ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu USD của tháng 10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Khủng hoảng tài chính dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam giảm giá tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu. 2.1.2.4. Vốn đầu tư nước ngoài Khủng hoảng làm chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn đã làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Mặc dù vậy, nhưng lượng vốn FDI cam kết dành cho Việt Nam vẫn tăng cao kỷ lục. Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 tháng của năm 2008, 1059 dự án FDI được đăng ký mới với qui mô vốn cam kết vượt trên 60 tỷ USD. Đây là con số rất ấn tượng, gấp hơn 3 lần năm 2007 và hơn 8 lần so với năm 2005. Giải ngân vốn FDI năm 2008 cũng lập một kỷ lục với 10,1 tỷ USD cho đến hết tháng 11/2008, tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2007, nhưng cho đến nay tỷ lệ vốn giải ngân mới chỉ bằng 17% con số đăng ký. Theo số liệu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư cô
Luận văn liên quan