Đề án Nguồn vốn của doanh nghiệp và giải pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập WTO

Từ sau Đại hội đảng VI của Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp nhằm vươn lên tầm châu lục và quốc tế, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Ngày 7/11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. Đây là cơ hội vàng cho doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh và đứng vững trong WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải giành thế chủ động trong quá trình hội nhập quốc tế. Một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp là vấn đề về vốn và các chính sách của nhà nước. Nhận thấy đây là vấn đề quan trọng, em quyết định chọn đề tài “Nguồn vốn của doanh nghiệp-Giảỉ pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập WTO”. Kết cấu của đề án. Phần I: Lời mở đầu Phần II: Nội dung Chương I: Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng huy động vốn và sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Chương III: Một số giải pháp nhằm hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp. Chương IV: Một số chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Phần III: Kết luận

doc31 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1865 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Nguồn vốn của doanh nghiệp và giải pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Từ sau Đại hội đảng VI của Đảng cộng sản Việt Nam, Việt Nam đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp nhằm vươn lên tầm châu lục và quốc tế, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Ngày 7/11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO. Đây là cơ hội vàng cho doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh và đứng vững trong WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải giành thế chủ động trong quá trình hội nhập quốc tế. Một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp là vấn đề về vốn và các chính sách của nhà nước. Nhận thấy đây là vấn đề quan trọng, em quyết định chọn đề tài “Nguồn vốn của doanh nghiệp-Giảỉ pháp nào để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hội nhập WTO”. Với khả năng còn hạn chế, đề tài này không tránh khỏi những khiếm khuyết, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề tài hoàn thiện hơn. Em cũng chân thành cảm ơn Th.S Phạm Hồng Vân và giảng viên Nguyễn Tất Thắng đã tận tình hướng dẫn em là đề án này. Kết cấu của đề án. Phần I: Lời mở đầu Phần II: Nội dung Chương I: Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng huy động vốn và sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Chương III: Một số giải pháp nhằm hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp. Chương IV: Một số chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Phần III: Kết luận CHƯƠNG I.CÁC PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP. 1.Khái niệm. Vốn là gì? Quan điểm chung nhất cho rằng vốn của một doanh nghiệp là “các nguồn lực được các doanh nghiệp sở hữu hoặc kiểm soát và có thể sử dụng để mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh”. Như vậy vốn của doanh nghiệp có thể bao gồm vốn tài chính, vốn con người, vốn công nghệ... Nếu ví doanh nghiệp như một cơ thể sống thì vốn chính là máu của doanh nghiệp. Vốn cung cấp các “dưỡng chất” để một doanh nghiệp tồn tại và phát triển. 2.Các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp. 2.1.Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số vốn nhất định. Đối với doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách nhà nước. Trong công ty tư nhân, chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần thiết để đăng ký thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp. Còn đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các công ty cổ phần cũng có một số hình thức khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau. Trên thực tế, vốn tự có của chủ doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so với vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh. 2.2.Vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại. Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các công ty, các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng. Bên cạnh đó, không một công ty nào có thể hoạt động tốt mà không vay vốn ngân hàng hoặc tín dụng thương mại. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt đông sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sauu của doanh nghiệp.Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn(từ 5 năm trở lên), vay trung hạn(từ 1 đến 5 năm), vay ngắn hạn(dưới 1 năm). Bên cạnh những ưu điểm trên, nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn Điều kiện tín dụng: Các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thông qua một hệ thống các biện pháp bảo đảm tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải cung cấp những báo cáo tài chính và những thông tin cần thiết cho ngân hàng. Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tín dụng, phổ biến nhất là bằng tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ... do đó, doanh nghiệp cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngan hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụnh vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát không gây ra vấn đề quá lớn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho doanh nghiệp có cảm giác bị kiểm soát. Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất vốn tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phai chịu chi phí sử dụng vốn quá lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Ngoài việc vay vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp còn có thể khai thác vốn tín dụng thương mại. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn với cả toàn bộ nền kinh tế. nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buọc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng cần để ý tới tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. Chi phí của việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay. Nó sẽ được tính váo giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá tuỳ thuộc quan hệ thoả thuận giữa các bên. 2.3.Nguồn vốn phát hành cổ phiếu. Phát hành cổ phiếu là một kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hàn cho công ty một cách rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán. Trong các nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoán là nơi hội tụ những hoạt động tài chính sôi động nhất của nền kinh tế. Để nắm rõ những khía cạnh chủ yếu của việc phát hành cổ phiếu, cần hiểu rõ đặc điểm của các loại cổ phiếu khác nhau. 2.3.1.Cổ phiếu thường. Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì các ưu điểm của nó đáp ứng được yêu cầu của cả người đầu tư và công ty phát hành. Lượng cổ phiếu tối đa mà công ty được cơ quan quản lý nhà nước cho phps phát hành gọi là vốn cổ phần được phép phát hnàh. Lượng cổ phiếu đó phụ thuộc vào quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền. Con số này cũng được hi trong điều lệ của công ty. Muốn tăng vốn cổ phần cần phải được đại hội cổ đông cho phép. Tuy nhiên trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình phát hành chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nước và uỷ ban chứng khoán nhà nước. Phần lớn những cổ phiếu đã phát hành nằm trong tay những nhà đầu tư. Những cổ phiếu này được coi là đang lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, có thể chính công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình và giữ nó nhằm mục đích nhất định. Những cổ phiếu đó được coi như không lưu hành. Việc mua lại hoặc bán ra những cổ phiếu nàyphụ thuộc và một số yếu tố như: tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư, chính sách đối với việc sát nhập hoặc thôn tính, tình hình trên thị trường chứng khoán. Mệnh giá và thị giá cổ phiếu Trên thực tế, khái niệm mệnh giá và thị giá được sử dụng không chỉ đối với cổ phiếu mà đối với cả các công cụ tài chính khac như trái phiều, thương phiếu. Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá, giá cả của cổ phiếu trên thị trường gọi là thị giá. Trị giá của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế toán của công ty gọi là giá trị ghi sổ của cổ phiếu. Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ phiếu mà còn được ghi rõ trong giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán của công ty. Tuy nhiên, mệnh giá chỉ có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với khoảng thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành. Cũng giống như các hàng hoá khác, cổ phiếu là một hàng hoá nên thị giá của nó phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường đối với cổ phiếu đó, phản ánh lòng tin của nhà đầu tư đối với hoạt động của công ty. Quyền hạn của cổ đông. Các cổ đông nắm giữ số cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công ty, do đó họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu nhập của công ty. Hàng năm công ty cổ phần tổ chức cuộc họp chính thức gọi là đại hội cổ đông. Cổ đông có quyền tham gia kiểm soát và theo dõi quản lý các công việc của công ty thông qua cơ chế đại diện và biểu quyết. Tuy nhiên, thông thường có một số lượng lớn cổ đông của công ty, nên mỗi cổ đông chỉ có một quyền lục giới hạn trong việc bỏ phiếu hoặc chỉ định thành viên ban giảm đốc. 2.3.2.Cổ phiếu ưu đãi. Thông thường cổ phiếu ưu đãi chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu đãi có đặc điểm là có mức cổ tực cố định. Người chủ của cổ phiếu này có quyền được nhận tiền lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không nhận được cổ tức của kỳ đó. Việc giả quyết chính sách cổ tức được nêu rõ trong điều lệ công ty. Một vấn đề quan trong càn đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu đãi là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức lấy được từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù vậy, cổ phiếu vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty phát hành và nhà đầu tư. 2.4.Phát hành trái phiếu công ty. Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện công ty và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiéu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành những loại trái phiếu công ty sau: 2.4.1.Trái phiếu có lãi suất cố định. Loại trái phiếu này được sử dụng phổ biến, cho nên khi mói đến trái phiếu công ty người ta thường hay nhắc đến lãi suất cố định. Lãi suất được ghi ngay trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy, cả công ty và người sở hữu trái phiếu đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường được quy định rõ. Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp dẫn của trai phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau: Lãi suất của trái phiếu:Đương nhiên, người đầu tư muốn được hưởng mức lãi suất cao nhưng công ty phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận được đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả thật cao cho nhà đầu tư. Lãi suất của trái phiếu phải được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính đến sự cạnh tranh của trái phiếu các công ty khác. Tuy nhiên công ty cũng phải tính tới khả năng xem mình có gánh được chi phí lãi vay này hay không rồi mới quyết định được lãi suất của trái phiếu. Trong một số trường hợp, việc đưa thêm một số yếu tố khuyến khích vào trái phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất. Kỳ hạn của trái phiếu: Đây cũng là một yếu tố quan trong khi cân nhắc phát hành trái phiếu công ty. Uy tín của công ty cũng có ảnh hưởng đến việc phát hành trái phiếu. Mức độ thuận lợi và tính hấp dẫn của tría phiếu công ty luôn luôn phụ thuộc vào uy tín công ty, nhất là độ tin cậy về tài chính. Trong viẹc phát hành trái phiếu công ty cũng cần chú ý đến mệnh giá của trái phiếu. Mệnh giá cao quá làm nhà đầu tư không đủ khả năng tài chính để mua trái phiếu, mệnh giá thấp quá sẽ không huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi. Một trái phiếu có mệnh giá vừa phải làm nhiều người có thể mua được, tạo sự lưu thông đẽ dàng cho trái phiếu trên thị trường. 2.4.2.Trái phiếu có lãi suất thay đổi. Trái phiếu có lãi suất thay đổi nhưng trên thực tế loại này có lãi suất phụ thuộc vào một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường quốc tế, chẳng hạn như lãi suất LIRBOR (Longdon Interbank Offered Rate) hoặc lãi suất cơ bản do ngân hàng Trung ương quy định. Tuy vậy, trái phiếu có lãi suấ thay đổi không phải là loại phổ biến đối với trái phiếu. Trong điều kiện có mức lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định thì có thể khai thác tính ưu việt của loại trái phiếu này. Tuy nhiên loại trái phiếu này cũng có một số nhược điểm. Thứ nhất, công ty không thể biết chắc về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. Thứ hai, việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải theo dõi và thông báo các lần điều chỉnh lãi suất cho người mua trái phiếu. 2.4.3.Trái phiếu có thể thu hồi. Một số công ty lựa chọn cách phát hành trái phiếu có thể thu hồi, tức là công ty có thể mua lại và một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy định ngay khi phát hành để người mau được biết. Phải quy định rõ vè thời gian và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu. Thông thường người ta quy định thời hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi. Loại trái phiếu này có ưu điểm là: thứ nhất, có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi không cần thiết, công ty có thể mau lại trái phiếu, tức là giảm số vốn vay. Thứ hai, công ty có thể thay trái phiếu loại này bừng một nguồn tài chính khác bằng cách mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên, nếu không có tính hấp dẫn nào đó thì trái phiếu này không được ưa thích. 2.5.Nguồn vốn nội bộ. Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một con đường tố vì công ty phát huy được nguồn lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều công ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc lợi nhuận có liên quan đến một số tất yếu nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia cổ phần. Các cổ đông không được nhận cổ tức nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP 1.Những khó khăn chung của các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Một thực tế đáng buồn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là sức cạnh tranh kém do công nghệ sản xuất lạc hậu. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này là nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp còn hạn hẹp, trong khi nhiều công cụ và hình thức huy động vốn trong nền kinh tế thị trường chưa được doanh nghiệp sử dụng triệt để và hiệu quả. Hiện nay, vốn của các doanh nghiệp còn rất thấp, ngoài nguyên nhân tiềm lực của các nhà đầu tư chưa mạnh, còn có nguyên nhân là thi trường vốn chưa hoàn chỉnh, chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Trong khi nguồn vốn còn hạn chế thì các giải pháp nhằm huy động vốn còn gặp không ít khó khăn. Về lý thuyết cũng như trên thực tế, vốn cho các dự án đầu tư đổi mới công nghệ hay các dự án đầu tư nói chung được các doanh nghiệp huy động từ các nguồn sau: Vốn tự có của doanh nghiệp và phần lợi nhuận để lại cộng dồn cua doanh nghiệp, vốn được cấp từ ngân sách (đối với doanh nghiệp nhà nước), vốn huy động qua phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) doanh nghiệp, vốn vay từ các ngân hàng thương mại, tín dụng thuê mua... 1.1.Về nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Vốn tự có thực chất là phần lợi nhuận cộng dồn để lại doanh nghiệp, song do Việt Nam bắt đầu công cuộc phục hồi và phát triển kinh tế từ một xuất phát điểm rất thấp về mặt công nghệ, máy móc thiết bị của nhiều ngành công nghiệp lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ so với các nước phát triển nên điều đó đã hạn chế rất nhiều đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đây là nguyên nhân chính dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp không được cao. Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển chưa đầy đủ và hoạt động một cách hiệu quả thì nguồn vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn tương đối quan trọng đối với doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên do lợi nhuận không cao, bên cạnh đó thuế thu nhập doanh nghiệp còn cao làm cho nguồn vốn này vẫn còn hạn chế, không thể đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ. 1.2.Nguồn vốn vay từ các ngân hàng. Đây là phương thức huy động nguồn vốn dài hạn được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng phổ biến nhất từ trước đến nay. Tuy nhiên không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận được với nguồn vốn này và khả năng nguồn vay cũng có những giới hạn nhất định so với quy mô hiện tại của doanh nghiệp. Theo một điều tra của Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), tỷ suất nợ trên tổng tài sản của doanh nghiệp, đặc biệt là của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rất khiêm tốn (trung bình khoảng 8%). Cũng chỉ một nửa số doanh nghiệp vừa và nhỏ được điều tra là có vay nợ, hầu hết là nợ ngắn hạn và vay từ nhiều nguồn khác nhau. Điều tra cũng cho thấy, có rất ít doanh nghiệp thành công trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức. Một nghiên cứu của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về việc cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam cho thấy, cản trở lớn nhất là ngân hàng không có đủ thông tin tin cậy về người vay và không có khả năng thu hồi các khoản nợ xấu do hệ thống chế tài chưa hoàn thiện. Đôi khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng ngân hàng nhưng chỉ có thể là nguồn tín dụng ngắn hạn. Có 2/3 số giám đốc cho rằng họ cần những khoản tín dụng dài hạn để đầu tư máy móc, thiết bị mới và nâng cấp nhà xưởng, nhưng nhu cầu này là rất khó được đáp ứng, gần như là không thể và trong số các khoản vay tín dụng, các khoản vay ngắn hạn chiếm khoảng 80% trong tổng số các khoản vay được duyệt của ngân hàng thương mại. Mặt khác, hiện nay lãi suất vay vốn ngân hàng đang ở mức rất cao. Lãi suất huy động cao nhất thuộc về các quỹ tín dụng nhân dan cơ sở, lên tới 0,9%/tháng, một số ngân hàng thương mại cổ phần có lãi suất cao nhất là 0,82 – 0,83%/tháng. Một số ngân hàng thương mại nhà nước có lãi suất cao nhất là 0,77%/tháng. 1.3.Phát hành chứng khoán. Doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu để huy động vốn cho dự án đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất. Khi đó chi phí vốn vay hay lãi suất phải trả sẽ do thị trường tài chính xác định. Thị trường tài chính hoạt động càng có hiệu quả thì chi phí vốn càng phản ánh đúng bản chất rủi ro của đầu tư. Tuy nhiên theo nhận định của Nguyên thủ tướng Phan Văn Khái thì “Thị trường vốn nước ta vẫn chưa phát triển”. Cũng theo ông Phạm Phan Dũng, Vụ trưởng vụ Tài chính-Ngân hàng (Bộ tài chính) đưa ra nhận xét, hiện nay, thị trường trái phiếu
Luận văn liên quan