Đề án Thị trường chứng khoán thực trạng và giải pháp

Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời đầu năm 2000. Thuật ngữ “Thị trường chứng khoán” còn khá mới mẻ đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới, thị trường chứng khoán đã phát triển rất sôi động. Đầu tư vào thị trường chứng khoán đã trở nên quan trọng đối với mọi người. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới trong năm qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, đặt ra yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường vốn mà nổi bật là thị trường chứng khoán. Xuất phát từ những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầu thiết yếu. Giúp chúng ta hội nhập nhanh và tiến kịp với trình độ của các nước trên thế giới. Và không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một nước mà nó còn quan trọng đối với mỗi người bởi vì khả năng đầu tư sinh lợi của nó. Vì vậy, mỗi người tuỳ theo điều kiện, khả năng của mình mà cần phải tiếp cận thật nhanh để tham gia đầu tư có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Chính các hoạt động đó sẽ góp phần đưa thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển.

docx35 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường chứng khoán thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH Thị trường chứng khoán thực trạng và giải pháp LỜI MỞ ĐẦU Sự cần thiết của đề tài. Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ra đời đầu năm 2000. Thuật ngữ “Thị trường chứng khoán” còn khá mới mẻ đối với công chúng Việt Nam. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới, thị trường chứng khoán đã phát triển rất sôi động. Đầu tư vào thị trường chứng khoán đã trở nên quan trọng đối với mọi người. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới trong năm qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, đặt ra yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường vốn mà nổi bật là thị trường chứng khoán. Xuất phát từ những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầu thiết yếu. Giúp chúng ta hội nhập nhanh và tiến kịp với trình độ của các nước trên thế giới. Và không chỉ quan trọng đối với nền kinh tế của một nước mà nó còn quan trọng đối với mỗi người bởi vì khả năng đầu tư sinh lợi của nó. Vì vậy, mỗi người tuỳ theo điều kiện, khả năng của mình mà cần phải tiếp cận thật nhanh để tham gia đầu tư có hiệu quả vào thị trường chứng khoán. Chính các hoạt động đó sẽ góp phần đưa thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Phạm vi và mục đích nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu Do qui mô của bài viết và thời gian làm bài bị hạn chế, cho nên bài viết này chỉ tập trung đề cập vào những nội dung cơ bản nhất của thị trường chứng khoán. Kiến thức về thị trường chứng khoán rất lớn nhưng những kiến thức trong bài viết này cũng tương đối đủ để hiểu về thị trường chứng khoán. Về phần nói về thực trạng và một số giải pháp cho thị trường chứng khoán Việt Nam, cũng do đó có nhiều hạn chế. Vì vậy, bài viết này cũng chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Mục đích nghiên cứu Thấy được thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam, vẫn đang là thị trường non yếu. Nhưng nó là nhân tố quan trọng để thúc đẩy kinh tế Việt Nam đi lên hoà nhập với xu hướng chung của Thế giới. Và từ đó tìm ra giải pháp thích hợp cho thị trường chứng khoán nước ta. Kết cấu của đề bài. Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận cơ bản về thị trường chứng khoán, nghiên cứu thống kê, phân tích số liệu, nắm bắt thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tìm ra những thành công và những thất bại của thị trường chứng khoán Việt Nam. Nội dung của đề tài bao gồm các nội dung sau: Lời mở đầu Phần I: Cơ sở lý luận về thị trường chứng khoán. Phần II: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam. Phần III: Một số giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Lời kết luận. Vì sự hiểu biết và thời gian có hạn cho nên nội dung đề tài của mình không tránh khỏi những sai xót. Do vậy, em mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy cô và bạn bè để cho đề tài của em thêm hoàn thiện. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô Bùi Thị Thu Ngân cô đã giúp em hoàn thành tốt đề tài này. PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm. Thị trường chứng khoán là thị trường có tổ chức, là nơi mà các chứng khoán được mua bán theo các qui tắc đã được quy định. 1.1.2. Phân loại. a) Căn cứ theo tính chất pháp lý có thị trường chứng khoán chính thức và thị trường chứng khoán phi chính thức. Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán, là nơi mua bán loại chứng khoán được niêm yết có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả được xác định theo hình thức đấu giá hoặc đấu lệnh. Thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường OTC, là nơi mua bán các loại chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch, không có ngày giờ nghỉ hay thủ tục quyết định mà do thỏa thuận giữa người mua và người bán. b) Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán có thị trường phát hành và thị trường giao dịch. Thị trường phát hành hay còn gọi là thị trường sơ cấp là nơi các chứng khoán được phát hành lần đầu bởi các nhà phát hành được bán cho các nhà đầu tư. c) Căn cứ vào phương thức giao dịch có thị trường giao ngay và thị trường tương lai. Thị trường giao ngay là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo qui định. Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một loạt hợp đồng định sẵn, giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra trong một ngày ký hạn nhất định trong tương lai. d) Căn cứ vào đặc điểm hàng hóa trên thị trường chứng khoán có thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường phát sinh. Thị trường trái phiếu là nơi mua bán các trái phiếu.  Thị trường cổ phiếu là nơi mua bán các cổ phiếu.  Thị trường phát sinh là nơi mua bán các công cụ có nguồn gốc chứng khoán  1.1.3. Vai trò của thị trường chứng khoán. a) Đối với chính phủ. Thị trường chứng khoán cung cấp các phương tiện để huy động vốn và sử dụng các nguồn vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân. Chính phủ huy động vốn bằng việc bán trái phiếu và dùng số tiền đó để đầu tư vào các dự án cần thiết của mình. Thị trường chứng khoán còn góp phần thực hiện quá trình cổ phần hoá. Chính thị trường chứng khoán có thực mới có thể tuyên truyền sự cần thiết của thị trường chứng khoán một cách tốt nhất. Từ đó khuyến khích việc cổ phần hóa nhanh lên các doanh nghiệp quốc doanh. Thị trường chứng khoán là nơi để thực hiện các chính sách tiền tệ. Lãi suất thị trường có thể tăng lên hoặc giảm xuống do việc chính phủ mua hoặc bán trái phiếu. Ngoài ra thị trường chứng khoán là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài qua việc nước ngoài mua chứng khoán. b) Đối với doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán giúp các công ty thoát khỏi các khoản vay có chi phí cao ở các ngân hàng. Các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Hoặc chính thị trường chứng khoán tạo ra tính thanh khoản để cho công ty có thể bán chứng khoán bất kỳ lúc nào để có tiền. Như vậy, thị trường chứng khoán giúp các doanh nghiệp đa dạng hóa các hình thức huy động vốn và đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể cả giá trị hữu hình và vô hình) thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệmới, cải tiến sản phẩm. Thị trường chứng khoán còn là nơi giúp các tập đoàn ra mắt công chúng. Thị trường chứng khoán chính là nơi quảng cáo ít chi phí về bản thân doanh nghiệp. c) Đối với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm cơ hội đầu tư để đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư. 1.1.4. Nhược điểm của thị trường chứng khoán. a) Yếu tố đầu cơ. Đầu tư là yếu tố có tính toán của người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai và thu hồi được lợi nhuận trong từng thương vụ. Yếu tố này gây ảnh hưởng lan truyền làm cho giá cổ phiếu có thể tăng giả tạo. Tuy nhiên thị trường không cấm yếu tố này. b) Mua bán nội gián.  Mua bán nội gián là việc một cá nhân nào đó lợi dụng vị trí công việc của mình, nắm được những thông tin nội bộ của đơn vị phát hành để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi nhuận cho mình và làm ảnh hưởng tới giá của cổ phiếu trên thị trường. Đây là hành vi phi đạo đức thương mại và bị cấm ở các nước. c) Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc.  Đây là việc đưa ra các thông tin sai sự thật về tình hình tài chính, tình hình nội bộ của công ty hay về môi trường kinh doanh của công ty nhằm tăng hay giảm giá cổ phiếu để thu lợi nhuận cho cá nhân.  d) Mua bán cổ phiếu ngầm.  Mua bán cổ phiếu ngầm là việc mua bán không qua thị trường chứng khoán. Điều này có thể gây áp lực cho các nhà đầu tư khác đưa tới việc khống chế hay thay thế lãnh đạo. Việc phao tin đồn không chính xác và mua bán cổ phiếu ngầm đều bị cấm ở các nước. 1.1.5. Các chỉ số trên thị trường chứng khoán Việt Nam. a) Chỉ số chứng khoáng VN index. Chỉ số VN – index thể hiện biến động giá cổ phiếu giao dịch tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh. Công thức tính chỉ số áp dụng đối với toàn bộ các cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK nhằm thể hiện xu hướng giá cổ phiếu hàng ngày. Chỉ số VN – Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động. b) Chỉ số Hastc-Index  Chỉ số HASTC-Index được tính toán bắt đầu từ ngày chính thức mở cửa phiên giao dịch đầu tiên của thị trường (ngày 14-7-2005), được gọi là thời điểm gốc. Chỉ số này tính toán biến động giá của tất cả các cổ phiếu giao dịch trên Trung tâm GDCK Hà Nội. Phương pháp tính chỉ số bằng cách so sánh tổng giá trị thị trường hiện tại với tổng giá trị thị trường  của các cổ phiếu niêm yết tại thời điểm gốc.  1.1.6. Các nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng khoán. a) Nguyên tắc trung gian. Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch thường được thực hiện thông qua tổ chức trung gian và môi giới là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh. Trên thị trường thứ cấp, thông qua nghiệp vụ môi giới kinh doanh các công ty chứng khoán mua chứng khoán giúp các nhà đầu tư, hoặc mua chứng khoán của nhà đầu tư này để mua và bán cho các nhà đầu tư khác. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực và giúp thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư.  b) Nguyên tắc định giá.  Việc định giá chứng khoán trên thị trường phụ thuộc hoàn toàn vào các nhà trung gian môi giới. Mỗi nhà trung gian môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại một thời điểm tuỳ theo sự xét đoán và tùy vào số cung cầu chứng khoán có trên thị trường. Việc định giá chứng khoán được thực hiện thông qua trung gian cuộc thương lượng giữa những người môi giới cần mua và cần bán. Gias cả được hai bên thống nhất. Tất cả các thành viên có liên quan trên thị trường và cũng không có ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán. Vì thế thị trường chứng khoán được coi là thị trường tự do nhất trong các thị trường. c) Nguyên tắc công khai hoá.  Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, cũng như tình hình tài chính về kết quả kinh doanh của công ty phát hành và số lượng chứng khoán và giá cả từng loại đều được công khai trên thị trường và trong báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch số lượng chứng khoán được mua bán, giá cả từng loại đều được lập tức thông báo ngay. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua và người bán chứng khoán không bị hớ trong mua bán chứng khoán và người mua chứng khoán dễ dàng chọn lại chứng khoán theo sở thích của mình. 1.2. CHỨNG KHOÁN VÀ VIỆC PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 1.2.1 Chứng khoán và việc phân loại chứng khoán. a) Khái niệm. Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác nhận quyền đòi nợ hay quyền sở hữu về tài sản, bao gồm những điều kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. b) Phân loại chứng khoán. Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên ở đây, chứng khoán được chia thành ba tiêu thức chủ yếu, đó là: Căn cứ theo tiêu thức pháp lý có chứng khoán vô danh và chứng khoán ký danh Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên chủ sở hữu. Việc chuyển nhượng loại này rất dễ dàng, không cần thủ tục đăng ký rườm rà.  Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán ghi rõ họ tên chủ sở hữu. Việc chuyểnnhượng loại này được thực hiện bằng thủ tục đăng ký tại cơ quan phát hành. Căn cứ theo tính chất thu nhập có chứng khoán có thu nhập ổn định, chứng khoán có thu nhập không ổn định và chứng khoán hỗn hợp. Chứng khoán có thu nhập ổn định là các trái phiếu, thu nhập của nó không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Chứng khoán có thu nhập không ổn định là các cổ phiếu thường, thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty và chính sách trả cổ tức. Chứng khoán hỗn hợp là cổ phiếu ưu đãi, có một phần thu nhập là không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.  Căn cứ theo chủ thể phát hành có chứng khoán Chính phủ và chứng khoán công ty.  Chứng khoán Chính phủ là các chứng khoán do các cơ quan của Chính phủ trung ương hay chính quyền địa phương phát hành như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu Chính phủ, công trái Nhà nước. Chứng khoán công ty là chứng khoán do các doanh nghiệp, công ty cổ phần phát hành như trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ có nguồn gốc chứng khoán.  1.2.2. Phát hành chứng khoán. a) Chủ thể phát hành. Thứ nhất là Chính phủ. Mục đích phát hành của chính phủ là bù đắp sự thiếu hụt của ngân sách và huy động vốn để tài trợ cho các công trình, dự án lớn và quan trọng. Chính phủ phát hành các loại chứng khoán bao gồm: Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu công trình, Tín phiếu kho bạc. Thứ hai là các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát hành ra chứng khoán để huy động vốn và tăng vốn cho sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn đi vay từ các ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường chỉ có các công ty cổ phần và doanh nghiệp cổ phần hóa là tổ chức được phép phát hành cả trái phiếu và cổ phiếu. Thứ ba là các quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, được hình thành bằng vốn góp của các nhà đầu tư để tiến hành đầu tư vào chứng khoán và các loại hình đầu tư khác. Mục đích của thành lập quỹ đầu tư là tập hợp và thu hút những nhà dầu tư nhỏ, lẻ tham gia kinh doanh. b) Phương thức phát hành chứng khoán. Thứ nhất: Phân loại theo đợt phát hành Theo tiêu thức này, người ta phân chia phương thức phát hành thành phát hành chứng khoán lần đầu và phát hành các đợt tiếp theo. Thứ hai: Phân loại theo đối tượng mua bán chứng khoán Theo đối tượng mua bán chứng khoán, phương thức phát hành được phân chia thành: Phát hành riêng lẻ: là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là nhà đầu tư có tổ chức), với những điều kiện hạn chế và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Phát hành ra công chúng: là hình thứ phát hành trong đó chứng khoán được phát hành rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư nhất định, trong đó phải đảm bảo một tỷ lệ cho cac nhà đầu tư nhỏ. Ngoài ra tổng khối lượng phát hành chứng khoán cũng đạt một tỷ lệ theo quy định. 1.2.3. Cách thức đầu tư chứng khoán. Nhà đầu tư có thể tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán trên hai thị trường là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp: Nhà đầu tư tham gia đấu giá cổ phần tại các trung tâm giao dịch chứng khoán, hoặc công ty chứng khoán làm đại lý nhận lệnh (thường là công ty làm tư vấn phát hành cho công ty cổ phần). Thị trường thứ cấp: Nhà đầu tư không đến trực tiếp các trung tâm giao dịch mà mở tài khoản tại các công ty chứng khoán để thực hiện giao dịch theo nguyên tắc trung gian đối với chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch. Còn đối với các chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch thì không cần điều kiện này. PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY. 2.1. THỊ TRƯỜNG SƠ CẤP 2.1.1. Đầu tư vào cổ phiếu. Thực trạng của đầu tư vào cổ phiếu ở Việt Nam được thể hiện thông qua một số điểm sau: Thứ nhất là Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện cổ phần hóa bán đấu giá qua các tổ chức trung gian tài chính. Theo quy định tại nghị định số 187/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần, chúng ta đã cổ phần hóa được 2.188 doanh nghiệp, sắp xếp lại 3.450 DNNN trong tổng số 5.655 doanh nghiệp nhà nước vào đầu năm 2001. Kết thúc năm 2005 chúng ta đã cơ bản hoàn thành cơ cấu lại DNNN, tập trung hơn vào các lĩnh vực then chốt. Và năm 2005 cũng là năm đầu tiên thực hiện hình thức bán đấu giá cổ phần của các DNNN thực hiện cổ phần hóa qua các trung tâm giao dịch chứng khoán. Hai trung tâm giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội trong năm 2005 đã thực hiện 243 đợt đấu giá cổ phần, so với tổng số lượng cổ phần chào bán, và số lượng cổ phần được bán như sau: 1 Tổng số đợt đấu giá đã thực hiện Đợt 243 2 Tổng số cổ phần chào bán Cổ phần 352554154 3 Tổng số cổ phần bán được Cổ phần 310499094 4 Tỷ lệ cổ phần bán được so với chào bán % 88,07 (Nguồn: Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 1+2 năm 2006) Theo bảng trên ta có thể thấy rằng, năm 2005 thị trường sơ cấp từ con số không đã tạo ra một sự ấn tượng trong thị trường chứng khoán với 243 doanh nghiệp đã thực hiện đấu giá với số lượng cổ phần chào bán là 352 nghìn cổ phần tương đương với 3520 tỷ đồng (tính theo mệnh giá chào bán là 10.000 VNĐ). Đến năm 2008 việc cổ phần hóa không thành công. Có 62 công ty tiến hành cổ phần hoá và đấu giá thông qua HOSE và HASTC, nhưng phần lớn không bán được hết số cổ phần. Theo thống kê thì chỉ có 73/272 doanh nghiệp đã cổ phần hoá trong năm 2008, đạt 28% kế hoạch đề ra. Giờ đây, những doanh nghiệp như Vinatex, BIDV, Vietnam Airlines sẽ phải chờ đợi đến 2009 để được cổ phần hóa. Cổ phần hóa đã trở thành biện pháp sắp xếp lại, làm thay đổi về chất của khu vực DNNN. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế cho rằng, công tác này trong những tháng đầu năm 2013 còn chậm so với kế hoạch. Để đảm bảo hiệu quả của nhiệm vụ này trong thời gian còn lại của thời kỳ 2013 - 2015, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế cho rằng, các bộ, ngành, địa phương cần tăng cường vai trò giám sát, chỉ đạo của các cấp ủy; đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong DNNN; thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, hỗ trợ nhà đầu tư mua cổ phần; đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp Qua đây cho chúng ta có thể thấy rằng việc phần hóa bán đấu giá đã góp phần làm sôi động thị trường sơ cấp giúp thị trường chứng khoán Việt Nam có thêm những bước tiến mới trong lĩnh vực thị trường chứng khoán. Thứ hai là tình hình các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Năm 2005 Chính phủ ban hành quyết định 238/2005/QĐ-TTg nới rộng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam từ 30% lên 49%, thị trường đã có những chuyển biến tích cực. Toàn bộ giá trị thị trường với chứng khoán niêm yết hiện nay khoảng 5,3 tỷ USD. Cuối tháng 12- 2006, có trên 120.000 tài khoản giao dịch chứng khoán được mở, trong đó gần 2.000 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Ngày 01/01/2007 Luật Chứng khoán mới đi vào hoạt động chính thức đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Đến năm 2008 giao dịch của NĐTNN có nhiều điều rất đáng quan sát. Tuy nhiên mọi chuyện thay đổi kể từ tháng 8 khi tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới lan tới Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài bán ròng với khối lượng rất lớn, làm giảm đáng kể tỷ lệ nắm giữ chứng khoán Việt Nam của khối này, giảm gần 4 tỷ USD so với đầu năm. Vào cuối năm 2009 đầu năm 2010 chiến lược của NĐTNN và khối lượng mua ròng mạnh nhất trong thập kỷ, sự bền bỉ mua ròng của khối NĐTNN khi thị trường sụt giảm mạnh đã giúp họ bình quân được giá vốn với mức giá cao. Ngoài ra, cũng có thể thấy rằng, với một lượng tiền đầu tư thấp hơn các năm trước, khối NĐTNN đã sở hữu được một lượng cổ phiếu lớn hơn hẳn. Đây phải chăng là một trong những chiến lược của NĐTNN, tranh thủ khi thị trường sụt giảm, nâng cao tỷ lệ
Luận văn liên quan