Đề án Tín dụng thương mại và triển vọng ở Việt Nam

Hoàn toàn không quá lỗi khi nhận định. Nếu không có tín dụng thì chẳng có đường sắt ở châu Âu cũng như các công trình to lớn khác. Thật thế, tín dụng ra đời như một tất yếu lịch sử, nó đánh dấu bước tiến vĩ đại trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Nó giúp cho quá trình sản xuất được thông suốt, giúp tích tụ vốn cho phát triển kinh tế, nhờ đó tạo những biến chuyển đáng kinh ngạc. Sự phát triển không ngừng của các hình thức tín dụng là minh chứng hùng hồn cho sự cần thiết của nó. Ta hãy nhìn lại, trong thời kỳ bao cấp ở nước ta. Tín dụng vừa đơn điệu về loại hình, vừa cồng kềnh về tổ chức lại không phát huy được vai trò của nó với nền kinh tế. Mặc dù từ năm 1990, chúng ta đã có những xem xét sửa đổi song nó vẫn chưa đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, củng cố và hoàn thiện hệ thống tín dụng là thử thách đặt ra không chỉ với ngành Tài chính - Ngân hàng mà còn là đối với cả đất nước. Trong khuôn khổ đề án môn học, em chỉ xin đi vào một loại hình tín dụng tiêu biểu - Tín dụng thương mại (TDTM). Đây là hình thức tín dụng ra đời rất sớm và do những ưu thế riêng có, nó vẫn càng ngày càng được ưa chuộng. Lúc đầu TDTM chỉ đơn giản là mối quan hệ mua bán chịu giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, dần dà nó phải hiểu sâu hơn và lợi ích của các bên được bảo đảm hơn. Riêng ở Việt Nam, TDTM tồn tại ở khắp nơi song do một số lý do, đến nay nó vẫn chưa được thừa nhận chính thức, gây nên những trở ngại không đáng có cho người kinh doanh. Điều này đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Với mong muốn góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước em xin chọn đề tài “Tín dụng thương mại và triển vọng ở Việt Nam”. Sau đây là nội dung chính của đề tài: - Tìm hiểu chung về TDTM - Thực trạng ở Việt Nam - Lựa chọn đối nghịch và biện pháp khắc phục.

doc22 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2152 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tín dụng thương mại và triển vọng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Hoàn toàn không quá lỗi khi nhận định. Nếu không có tín dụng thì chẳng có đường sắt ở châu Âu cũng như các công trình to lớn khác. Thật thế, tín dụng ra đời như một tất yếu lịch sử, nó đánh dấu bước tiến vĩ đại trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Nó giúp cho quá trình sản xuất được thông suốt, giúp tích tụ vốn cho phát triển kinh tế, nhờ đó tạo những biến chuyển đáng kinh ngạc. Sự phát triển không ngừng của các hình thức tín dụng là minh chứng hùng hồn cho sự cần thiết của nó. Ta hãy nhìn lại, trong thời kỳ bao cấp ở nước ta. Tín dụng vừa đơn điệu về loại hình, vừa cồng kềnh về tổ chức lại không phát huy được vai trò của nó với nền kinh tế. Mặc dù từ năm 1990, chúng ta đã có những xem xét sửa đổi song nó vẫn chưa đạt được những kết quả cần thiết. Vì vậy, củng cố và hoàn thiện hệ thống tín dụng là thử thách đặt ra không chỉ với ngành Tài chính - Ngân hàng mà còn là đối với cả đất nước. Trong khuôn khổ đề án môn học, em chỉ xin đi vào một loại hình tín dụng tiêu biểu - Tín dụng thương mại (TDTM). Đây là hình thức tín dụng ra đời rất sớm và do những ưu thế riêng có, nó vẫn càng ngày càng được ưa chuộng. Lúc đầu TDTM chỉ đơn giản là mối quan hệ mua bán chịu giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, dần dà nó phải hiểu sâu hơn và lợi ích của các bên được bảo đảm hơn. Riêng ở Việt Nam, TDTM tồn tại ở khắp nơi song do một số lý do, đến nay nó vẫn chưa được thừa nhận chính thức, gây nên những trở ngại không đáng có cho người kinh doanh. Điều này đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Với mong muốn góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước em xin chọn đề tài “Tín dụng thương mại và triển vọng ở Việt Nam”. Sau đây là nội dung chính của đề tài: - Tìm hiểu chung về TDTM - Thực trạng ở Việt Nam - Lựa chọn đối nghịch và biện pháp khắc phục. I/ TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI - MỘT VẤN ĐỀ CÒN GÂY NHIỀU TRANH CÃI 1. Vài nét về tín dụng thương mại Tín dụng nói chung là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latin, đó là “Creditium” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Ngay với ý nghĩa ban đầu này nó cũng nói lên phần nào bản chất của tín dụng ngày nay. TDTM (Tradi Credit) là một loại hình tín dụng giữa những người sản xuất kinh doanh với nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Việc đặt tiền trước cho người cung cấp mà chưa lấy hàng cũng là hình thức TDTM vì người mua cho người bán tạm thời sử dụng vốn của mình. TDTM khác với tín dụng Ngân hàng (TDND - bank - credit) mà cũng khác với tín dụng tiêu dùng (TDTD) vì TDTM có đối tượng là hàng hóa trong khi đối tượng của TDNH là tiền tệ. Do đó nó có ưu thế hơn TDNH ở chỗ tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch với Ngân hàng. Thêm nữa, nhờ tính trừu tượng, TDTM được ưa thích hơn ở chỗ người sử dụng nó không phải công khai hoạt động của họ với ngân hàng. So với TDTD, rõ ràng TDTM ưu việt hơn vì nó tạo nguồn vốn kinh doanh, điều có ý nghĩa hết sức lớn lao với những nước nghèo và thiếu vốn như nước ta, khi mà TDTD tạo tâm lý tiêu dùng, giảm tiết kiệm chưa phù hợp với điều kiện cần tích lũy như nước ta. 2. Công cụ của TDTM Sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển, việc mua bán không thể chỉ dựa trên lòng tin của hai bên, vì vậy thương mại ra đời và ngay lập tức nó trở thành công cụ hữu hiệu của TDTM. Thương phiếu gồm hai loại là hối phiếu và kỳ phiếu. 2.1. Hối phiếu (Bill of Exchange) 2.1.1. Hình thức của hối phiếu Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền với điều kiện do người bán ký phát, yêu cầu người mua khi nhìn thấy phiếu hoặc đến một ngày cụ thể hoặc một ngày xác định trong tương lai phải trả một số tiền cho người bán hoặc theo lệnh của người đó trả tiền cho một người khác hoặc người cầm phiếu. 2.1.2. Đặc điểm của hối phiếu - Hối phiếu có tính trừu tượng. Trên hối phiếu người ta không ghi nội dung quan hệ tín dụng hay nguyên nhân sinh ra hối phiếu mà chỉ ghi rõ số tiền phải trả và những nội dung liên quan đến việc trả tiền. Hiệu lực pháp lý của hối phiếu không phụ thuộc vào nội dung tín dụng vì một khi tách khỏi hợp đồng và nằm trong tay người thứ ba thì nó trở thành một trái vụ độc lập. Nói theo cách khác, nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng. - Hối phiếu có tính bắt buộc cao. Bình thường, người trả tiền hối phiếu phải trả tiền vô điều kiện trừ trường hợp hối phiếu được lập ra trái với đạo luật chi phối nó. Một khi hối phiếu đã qua tay người thứ 3 thì người mua buộc phải trả tiền cho hối phiếu dù người cung cấp hàng vi phạm hợp đồng, không giao hàng cho người mua. Trong trường hợp bình thường, bên trả tiền nếu chậm trễ hoặc không chịu trả tiền sẽ bị pháp luật can thiệp và bị tuyên bố phá sản rất nhanh. - Hối phiếu có tính lưu thông rộng rãi. Hối phiếu có thể được chuyển nhượng nhiều lần trong thời hạn của nó. Tính chất này có được nhờ 2 tính chất ở trên. 2.1.3. Phân loại hối phiếu Căn cứ vào thời hạn trả tiền của hối phiếu, người ta chia nó thành 3 loại. - Hối phiếu trả ngay là hối phiếu mà khi người trả tiền nhìn thấy hối phiếu này phải trả tiền ngay cho người trình phiếu. - Hối phiếu trả tiền ngay sau một số ngày nhất định (thường từ 5 đến 7 ngày là lợi mà người trả tiền ký chấp nhận trả tiền và sau 5 đến 7 ngày thì trả tiền cho người chủ hối phiếu. - Hối phiếu có kỳ hạn: Sau một thời hạn nhất định có trên hối phiếu, noời trả phải trả tiền hoặc tính từ ngày ký phát hối phiếu hoặc tính từ ngày chấp nhận hối phiếu hay một ngày quy định cụ thể. * Căn cứ vào chứng từ kèm theo, người ta chia hối phiếu làm 2 loại: - Hối phiếu trơn là hối phiếu gửi đến đòi nợ không kèm theo chứng từ hàng hóa. Trong thanh toán quốc tế, hối phiếu này được dùng để thu cước phí vận tải, bảo hiểm, hoa hồng hoặc đòi tiền của những thương nhân quen biêt và tin cậy. - Ngược lại với hối phiếu trơn là loại kèm chứng từ hàng hóa. Nó gồm 2 loại riêng là hối phiếu kèm chứng từ trả tiền ngay, ký hiệu D/P hoặc hối phiếu kèm chứng từ chấp nhận D/A. * Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng, hối phiếu được chia làm 2 loại: - Hối phiếu đích danh là loại hối phiếu ghi rõ tên người hưởng lợi. Loại này không chuyển nhượng được bằng thủ tục ký hiệu. - Hối phiếu theo lệnh là loại hối phiếu chi trả theo lệnh của người hưởng lợi. Nó được chuyển nhượng bằng hình thức ký hiệu. Đây là loại được dùng rộng rãi trong thanh toán. * Căn cứ vào người ký phát, hối phiếu được chia làm 2 loại: - Hối phiếu thương mại là hối phiếu do người ký phát đòi tiền người mua. - Hối phiếu ngân hàng là loại mà ngân hàng phát hành ra, lệnh cho ngân hàng đại lý của mình thanh toán một số tiền nhất định cho người hưởng loại chỉ định trên hối phiếu. 2.2. Kỳ phiếu (Promissory Notes) 2.2.1. Hình thức của kỳ phiếu Kỳ phiếu là tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người mua chịu ký phát, hứa trả một số tiền nhất định cho người bán hoặc theo lệnh người này trả cho một người khác quy định trong kỳ phiếu đó. - Điều luật của kỳ phiếu tương tự như của hối phiếu song do tính thụ động kỳ phiếu ít được dùng hơn hối phiếu. 2.2.2. Đặc điểm của kỳ phiếu - Trên kỳ phiếu người ta phải ghi rõ kỳ hạn của nó - Kỳ phiếu có thể do một hoặc nhiều người ký phát, cam kết trả tiền cho một hoặc nhiều người hưởng lợi. - Để đảm bảo khả năng thanh toán của kỳ phiếu, nó phải được một ngân hàng hoặc công ty tài chính nào đó bảo lãnh. - Kỳ phiếu chỉ gồm một bản chính do người thu trái viết ra. 3. TDTM trong mối quan hệ với TDNH. Tuy là hai hình thức tín dụng hoàn toàn khác nhau song TDTM và TDNH lại liên quan mật thiết với nhau. Hai hình thức này bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, TDTM làm lợi cho TDNH, đến lượt nó TDNH giúp cho TDTM linh động, dễ dàng và an toàn hơn. 3.1. NHTM với việc mở L/c phục vụ TDTM quốc tế 3.1.1. L/c là gì? L/c viết tắt của Lettes of Credit - là văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/c cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung L/c. 3.1.2. Các bước thực hiện Hãy xem sơ đồ sau: - Người mua căn cứ vào hợp đồng mua hàng làm đơn xin mở một thư tín dụng (L/c) tại một ngân hàng nhất định mà 2 bên đã thỏa thuận. - Ngân hàng mở L/c căn cứ vào đơn xin mở L/c, mở L/c và thông báo cho người bán biết về L/c đó rồi gửi bản chính của L/c cho người bán. - Người bán kiểm tra kỹ nội dung của L/c, nếu hợp lệ thì chấp nhận và tiến hành giao hàng theo L/c. Nếu không, ngân hàng sẽ dừng ngay hợp đồng. 3.1.3. Ưu và nhược điểm của TDTM quốc tế * Ưu điểm: - Thanh toán bằng L/c giúp cho thủ tục đơn giản, việc mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhanh chóng, thuận tiện. - Mang tính chặt chẽ và nghiêm ngặt, nhờ đó giảm rủi ro trong quá trình buôn bán. Trong trường hợp người nhập vì một lý do nào đó không hoặc không thể thanh toán cho người xuất khẩu, họ vẫn thu được tiền của ngân hàng nhà nhập khẩu. Hơn nữa do hoạt động thương mại diễn ra trong phạm vi rộng, thông tin lẫn nhau ít nhiều hạn chế, việc mở L/c ở ngân hàng nhà nhập khẩu là một yếu tố đảm bảo khá chắc chắn vì họ nắm được tình hình tài chính của nhà nhập khẩu. * Nhược điểm: - Gây rủi ro không đáng có cho nhà kinh doanh do sự ràng buộc chặt chẽ về nội dung L/c và sự khác biệt trong pháp luật của mọi nước. - Gây những trùng lặp tiêu cực khi một doanh nghiệp mở L/c ở nhiều ngân hàng trong khi khả năng thanh toán của họ rất hạn chế. 3.2. Chiết khấu thương phiếu 3.2.1. Khái niệm về chiết khấu thương phiếu Trên thế giới, chiết khấu thương phiếu đã có lịch sử khá lâu. Nó là nghiệp vụ cổ điển nhất về huy động các khoản vay thương mại. Hiện nay, chiết khấu thương phiếu vẫn giữ vị trí then chốt trong các nghiệp vụ của ngân hàng bởi nó giải quyết tốt nguồn vốn kinh doanh và tương đối an toàn so với tín dụng ứng trước. Hơn thế, lợi nhuận mang lại từ việc chiết khấu thương phiếu rất lớn. Đó là một nghiệp vụ tín dụng, qua đó ngân hàng giao cho khách hàng một số tiền ghi trong thương phiếu mà không phải chờ đến ngày thanh toán của nó. Việc chiết khấu thương phiếu mà ngân hàng trở thành chủ sở hữu thương phiếu thông thương phải đem lại sự hoàn trả cho ngân hàng - người chiết khấu khoản tiền mà họ đã ứng trước: người cung cấp hàng hóa hay dịch vụ lập ra các thương phiếu thể hiện số hàng đã cung cấp hoặc dịch vụ đã làm và nhượng lại cho ngân hàng để được thanh toán trước hạn. Đây là công cụ tín dụng và thanh toán mà giới kinh doanh ưa sử dụng, nó là loại tín dụng đầu tiên mà doanh nghiệp có thể xin cấp. Xét theo nghĩa rộng, chiết khấu là một kỹ thuật tài trợ dẫn đến việc cấp tín dụng nhằm tái tài trợ. Với mục đích này nó được thực hiện dựa trên các thương phiếu ký chuyển nhượng của người đi vay giao cho ngân hàng - người cho vay. Kỹ thuật này cũng được sử dụng để tài trợ ngắn hạn, kể cả tín dụng ngân quỹ cũng như cho các tài trợ trung và dài hạn. Như vậy chiết khấu thương phiếu bao trùm tất cả các lãnh vực hoạt động - trừ cam kết bằng chữ ký - và đáp ứng các nhu cầu - thực tế rất khác nhau. Trong thực tiễn hoạt động ngân hàng, chiết khấu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn hoặc một trái phiếu có kỳ hạn giao số tiền tương ứng cho khách hàng sau khi trừ đi phần thù lao (lãi suất chiết khấu) của ngân hàng. Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng vì nó đem lại ngay cho khách hàng một số tiền mà bình thường chỉ được trả vào ngày đáo hạn thương phiếu. Nhìn về bản chất, chiết khấu thương phiếu không phải là khoản cho vay vì ngân hàng không cho khách hàng vay số tiền mà khách hàng sẽ phải trả cho ngân hàng. Ở đây ngân hàng ứng trước trị giá của thương phiếu chưa đến hạn và đổi lại bằng việc sở hữu thương phiếu đó. Nhờ đó ngân hàng được trả lại khoản ứng trước đây bằng cách truy đòi khi đáo hạn thương phiếu. 3.2.2. Cơ chế chiết khấu Nghiệp vụ chiết khấu là một thỏa ước giữa khách hàng với ngân hàng có thể chấp nhận chiết khấu từng món một hoặc cam kết trước là sẽ chiết khấu cho các chứng từ mà khách hàng xuất trình cho đến mức tối đa nào đó trong một thời hạn nhất định. Trường hợp này người ta gọi là tín dụng chiết khấu. Tuy nhiên ngân hàng cũng như một doanh nghiệp - vẫn từ chối một thương phiếu khả nghi. Trong hoạt động chiết khấu, ngân hàng chiết khấu trở thành chủ sở hữu thương phiếu. Việc chuyển giao thương phiếu thường được thực hiện bằng cách để tránh ký hiệu hoặc chỉ định ngân hàng là người thu hưởng thương phiếu. Ngân hàng ứng cho người cầm thương phiếu sau khi tính thù lao, phần thu này gồm nhiều loại phí và lãi suất thương phiếu. 3.2.3. Đặc điểm chiết khấu Thông thường thương phiếu do ngân hàng xuất trình đều được thanh toán và tín dụng được thu hồi. Tuy nhiên khi người trả tiền không hoặc không có khả năng thanh toán, ngân hàng vẫn có vị trí pháp lý rất mạnh với 2 cách truy đòi. - Với tư cách là chủ sở hữu của thương phiếu, ngân hàng có thể truy đòi theo luật thương phiếu đối với mọi người ký trên phiếu với tất cả những đảm bảo mà điều khoản này mang lại. Đồng thời ngân hàng có quyền theo đuổi việc thanh toán đến cùng. - Với tư cách là người chiết khấu, ngân hàng có quyền truy đòi khách hàng của mình vì ngân hàng chỉ giao tiền theo giá trị của thương phiếu khi đảm bảo thu được tiền. Trường hợp rủi ro, ngân hàng có thể đòi người xin chiết khấu. Nếu khách hàng có quan hệ tài khoản với ngân hàng, ngân hàng đòi tiền bằng cách trừ vào tài khoản của họ. 3.2.4. Ưu nhược điểm của chiết khấu Ta biết rằng chiết khấu làm cho khả năng lưu thông của thương phiếu tăng lên và trở thành phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khá hữu hiệu, có khả năng hoán chuyển cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của doanh nghiệp cho vay. * Chiết khấu rất bảo đảm đối với ngân hàng vì ngân hàng có những công cụ hữu hiệu để truy đòi các khoản TDTM. Ngoài ra khi cần thiết, NHTM có thể đem thương phiếu đến tái chiết khấu ở NHTW. Tuy vậy các ngân hàng cùng phải đương đầu với những khó khăn sau: Thứ nhất, chi phí quản lý thương phiếu rất cao Thứ hai, thông tin về người ký thương phiếu không đầy đủ. Thông thường ngân hàng không có quan hệ trực tiếp với người ký phát nên quyết định chiết khấu mang tính mạo hiểm. Để giải quyết việc đó, các ngân hàng thường quy định lãi suất chiết khấu cao nhằm san bằng rủi ro. Thứ ba, là những rủi ro ngân hàng gặp phải do các doanh nghiệp làm ăn phi pháp, lừa đảo, dùng tiền vay ngân hàng trả nợ cho TDTM. 3.3. Ngân hàng - người tư vấn Do tính chất của hoạt động ngân hàng họ có cơ hội tiếp xúc, nắm được những thông tin bao quát về tình hình tài chính của các doanh nghiệp, ngân hàng trở thành nhà tư vấn cho người sản xuất kinh doanh hay những người buôn bán giấy tờ có giá. Nhờ thông tin do ngân hàng cung cấp, khách hàng ra quyết định có dùng thương phiếu đó không. 4. Vai trò của TDTM So với các loại tín dụng khác, TDTM khá đặc biệt. Nó có những ưu điểm: - Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, làm cho sản xuất lưu thông được liên tục, nhờ đó tăng hiệu quả kinh tế. - Có khả năng tích tụ vốn cao, nó là nguồn vốn lưu động quan trọng dù giá của nó khá đắt: 2% lãi suất cho 10 ngày. - Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ và nó là hình thức lưu thông không dùng tiền mặt. Trên thực tế, tiền vẫn nằm tại ngân hàng trong khi thương phiếu có thể được thay đổi chủ sở hữu. - Khuyến khích sản xuất kinh doanh nhờ tính trừu tượng. Người kinh doanh bí mật được hoạt động của mình về loại hàng hóa, giá thành... Tuy vậy, muốn TDTM hoạt động hiệu quả cần khắc phục những hạn chế sau: - Hạn chế về quy mô tín dụng: quy mô TDTM là có hạn, cụ thể khoản tín dụng có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng giá trị hàng hóa trao đổi. - Hạn chế về chiều vận động: TDTM chỉ vận động theo một chiều nên nếu chỉ một khoản trục trặc có thể dẫn đến phá sản hàng loạt. - Hạn chế do thiếu sự giảm sút của ngân hàng dẫn đến sự hạn chế khả năng theo dõi doanh nghiệp. Vì vậy nó nảy sinh tiêu cực như nạn buôn bán giả, rửa tiền... Ngoài ra TDTM còn là mầm mống của khủng hoảng sản xuất thừa với những đơn đặt hàng giả hoặc không có khả năng được thanh toán. II/ TDTM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1. TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ Sự bùng nổ hình thức TDTM quốc tế trong mấy năm gần đây đặt nước ta vào tình trạng hết sức khó khăn vì một mặt, TDTM quốc tế là công cụ thuận lợi cho kinh doanh quốc tế, nó làm tăng đáng kể khối lượng xuất nhập khẩu, khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu cũng như các ngành sản xuất có đầu vào là nguyên liệu ngoại nhập, mặt khác nó cũng gây những hậu quả cho nền kinh tế với hiện trạng. 1.1. Quản lý TDTM quốc tế đang bị thả lỏng - Do thiếu hiểu biết, người ta ngộ nhận rằng nguồn vốn thu hút từ việc mở L/c trả chậm là nguồn vốn rẻ tiền và có thể dùng thoải mái tới mức họ quên đi những rủi ro đáng lo ngại và hậu quả xấu cho đất nước và các ngân hàng lao vào nghiệp vụ này một cách phiêu lưu. Nguyên nhân chính ở đây là việc quản lý hình thức tín dụng này hầu như bị thả nổi. Quỹ tiền tệ quốc tế khuyên ta nên hạn chế doanh nghiệp vay nước ngoài cho phù hợp với khả năng trả nợ nhưng con số vẫn không ngừng gia tăng. Người ta cảnh báo rằng, nguy cơ đáng lo ngại là có những công ty TNHH với số vốn trong TNHH chỉ có 3 tỷ đồng nhưng đã mở tổng số L/c trả chậm là 41 triệu USD. Như vậy chỉ cần một sơ suất nhỏ hay giá hàng nhập theo L/c đó giảm 1% là doanh nghiệp lỗ vốn 410.000USD, vượt số vốn tự có. Khối lượng TDTM quốc tế lớn như vậy nhưng chủ yếu để nhập khẩu hàng tiêu dùng, sau đó chính cán cân thanh toán quốc tế sẽ phải gánh chịu việc trả nợ này khi đáo hạn. Về phía quy định, việc bảo lãnh cho mỗi L/c hầu như không có thể lệ hướng dẫn thi hành, ghi chép ngoại bảng không kiểm soát nổi đến chỗ thắt chặt gần như cấm hoàn toàn. Nó thường xuyên bị lợi dụng để làm ăn phi pháp. Lúc đầu nó chỉ là nhập hàng trả chậm nhưng một số công ty móc ngoặc được với các cán bộ ngân hàng biến chất, rút được hàng hóa thế chấp cho L/c trả chậm đem bán phá giá lấy vốn quay vòng. Đến khi việc kinh doanh gặp rủi ro, ngân hàng là người gánh chịu những khoản này. Mặc dù đã có những biện pháp ngăn ngừa như ban hành tỷ lệ ký quỹ là 80% mà thực chất là cấm mở L/c trả chậm nhưng rồi L/c vẫn tăng đáng kể. Nguyên nhân là do các công ty cần nhập nguyên liệu cho sản xuất kiến nghị đồng loạt nên việc mở L/c lại trở về lỏng lẻo như cũ. Chẳng hạn, phân bón là mặt hàng thường xuyên được nhập về để bán phá giá lấy vốn quay vòng lại thuộc loại nguyên liệu cho nông nghiệp nên các ngân hàng vẫn tăng L/c trả chậm. Vì vậy khối lượng L/c trả chậm đầu năm 1996 khoảng 1200 triệu USD; đến tháng 6/1996 đã tăng đến hơn 1400 triệu USD. Trong vụ Epco và Minh Phụng, người ta mới thấy hết tai họa của việc bảo lãnh mở L/c trả chậm không được quản lý: riêng 2 công ty này đã hút được tới 44 triệu USD vốn đem quay vòng từ các L/c trả chậm, trong đó quá hạn chiếm 31,3% hay 13,8 triệu USD. 1.2. Thông tin thiếu thốn: Do vậy, có khách hàng mở L/c ở nhiều ngân hàng tới vài chục triệu USC. Trung tâm thông tin tín dụng của ta không thể cung cấp số L/c mà khách hàng mở ở nhiều ngân hàng khác nhau. 1.3. NHTM hoạt động kém hiệu quả, nghiệp vụ yếu kém, đội ngũ cán bộ trình độ hạn chế, chưa được thanh lọc, phẩm chất chưa tốt. Từ đó dẫn đến những vi phạm nguyên tắc một cách vô tình hay cố ý, tham ô, hối lộ gây những thiệt hại lớn cho đất nước. Nghiệp vụ ngân hàng chưa cao nên không theo dõi và không có đủ thông tin về doanh nghiệp, không kịp thời can thiệp được khi có sai trái. 1.4. Chưa có hiểu biết đầy đủ về TDTM quốc tế Chúng ta tiếp cận và sử dụng TDTM quốc tế như là một công cụ hiệu quả cho xuất nhập khẩu mà chưa hiểu rõ bản chất của nó. Thêm vào đó, chúng ta thiếu một hệ thống pháp luật cụ thể và hiệu quả, dẫn đến những rủi ro cho nền kinh tế. Do ham lợi trước mắt, các ngân hàng và doanh nghiệp làm sai quy tắc. Do thiếu kiến thức, nhiều L/c bị từ chối thanh toán do bộ chứng từ không hợp lệ. 1.5. Ngân hàng nhà nước chưa ban hành chế độ mở L/c trả chậm. Việc thiếu vắng một thể lệ có tính pháp quy như vậy đã tạo kẽ hở cho một số ngân hàng đua nhau hạ thấp các điều kiện mở L/c để thu hút khách hàng và sẵn sàng lao vào nuôi những công ty mở L/c tràn lan không có vốn đảm bảo. 1.6. Không có sự phối hợp giữa Vụ chức năng và Vụ kế toán của NHTW để quản lý bằng một chế độ hoạch t
Luận văn liên quan