Đề tài Bàn về quản lý thu chi chi bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008

Chính sách Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã thực hiện được từ những năm 60 của Thế kỷ XX. Trải qua nhiều năm với những sửa đổi, bỏ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách Bảo hiểm xã hội đã đóng góp phần rất to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Người ta ví “ Cuộc sống không có bảo hiểm như cầu thang không có tay viện”. Nhận thức được tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống an sinh quốc gia (ASXH ) quốc gia. Trong những năm vừa qua việc triển BHXH đã từng bước đi vào cuộc sống thông qua việc thực hiện có hiệu quả các chế độ hưa trí, ốm đau, thai sản . Qũy BHXH là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được và có thể nói là vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc quản lý sử dụng quỹ BHXH, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự ổn định của chính sách BHXH. Vậy vấn đề làm thể nào để nâng cao được hiệu quả trong việc thu - chi quỹ BHXH đây là câu hỏi được đặt ra đối với mỗi nhà kinh tế, những người quan tâm nghiên cứu đến hoạt động BHXH. Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở Bắc Trung Bộ có diện tích tự nhiên lớn và dân cư đông bao gồm: 27 huyện thị trong đó có 2 thị xã và một thành phố. Là một tỉnh có truyền thống về lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, năm trên con đường huyết mạch từ Bắc chí Nam. Là một người con của đất Thanh Hóa và là sinh viên khao Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế quốc dân nên em đã trọn đề tài “Bàn về quản lý thu chi chi BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008 “ . Qua bài viết này em xin nêu lên và đóng góp một số ý kiến, một số suy nghĩ của mình trong việc quản lý thu chi quỹ BHXH.

doc36 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2766 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về quản lý thu chi chi bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Chính sách Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, đã thực hiện được từ những năm 60 của Thế kỷ XX. Trải qua nhiều năm với những sửa đổi, bỏ sung cho phù hợp với từng giai đoạn, chính sách Bảo hiểm xã hội đã đóng góp phần rất to lớn đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Người ta ví “ Cuộc sống không có bảo hiểm như cầu thang không có tay viện”. Nhận thức được tầm quan trọng của BHXH trong hệ thống an sinh quốc gia (ASXH ) quốc gia. Trong những năm vừa qua việc triển BHXH đã từng bước đi vào cuộc sống thông qua việc thực hiện có hiệu quả các chế độ hưa trí, ốm đau, thai sản …. Qũy BHXH là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được và có thể nói là vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc quản lý sử dụng quỹ BHXH, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự ổn định của chính sách BHXH. Vậy vấn đề làm thể nào để nâng cao được hiệu quả trong việc thu - chi quỹ BHXH đây là câu hỏi được đặt ra đối với mỗi nhà kinh tế, những người quan tâm nghiên cứu đến hoạt động BHXH. Thanh Hoá là một tỉnh nằm ở Bắc Trung Bộ có diện tích tự nhiên lớn và dân cư đông bao gồm: 27 huyện thị trong đó có 2 thị xã và một thành phố. Là một tỉnh có truyền thống về lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, năm trên con đường huyết mạch từ Bắc chí Nam. Là một người con của đất Thanh Hóa và là sinh viên khao Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế quốc dân nên em đã trọn đề tài “Bàn về quản lý thu chi chi BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2003 – 2008 “ . Qua bài viết này em xin nêu lên và đóng góp một số ý kiến, một số suy nghĩ của mình trong việc quản lý thu chi quỹ BHXH. Chương I: BHXH và quỹ BHXH BHXH: Khái niệm và bản chất: Khái niệm: BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo phần thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ, khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động như bị mất việc làm, ốm đau bệnh tật, tai nạn, tuổi già… Bản chất: Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sỡ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ không có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như già yếu, thai sản v.v… Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất khi gặp những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía nhà nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) cụ thể hoá như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cuộc sống cho họ + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật; + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Đối tượng, chức năng, bản chất: 2.1. Đối tượng: Dù có lịch sử ra đời từ rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn rất nhiều quan điểm chưa thống nhất, hay có sự nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với đối tượng tham gia BHXH. Theo khái niệm của BHXH :” BHXH là quá trình tổ chức, sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, nhằm đảm bảo phần thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu của người lao động và gia đình họ, khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập theo lao động như bị mất việc làm, ốm đau bệnh tật, tai nạn, tuổi già…” vì vậy đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập bị mất đi hay giảm đi do sự rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Đối tượng tham gia BHXH đó là người lao động và người sử dụng lao động, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ mà đối tượng tham gia có thể là tất cả hoặc một bộ phận người lao động. Nhưng nhìn chung thì khi kinh tế càng phát triển thì đối tượng tham gia càng được mở rộng hơn. Chức năng: BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây: Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quy định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giúp những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hay mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa người đang khoẻ mạnh làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng xuất lao động cá nhân và năng xuất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh tham gia lao động sản xuất người lao động được chủ sử dụng lao động trả lường hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi già yếu đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chổ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao động cá nhân và kéo theo là năng xuất lao động của xã hội. Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động v.v… Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn. Bản chất: Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Như đã phân tích ở trên, rủi ro xảy đến với cuộc sống của người lao động không hoàn toàn do người lao động gánh chịu mà nó ảnh hưởng tới người sử dụng lao động, tới toàn xã hội, nó gây ra mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động làm giảm năng suất lao động, mất ổn định xã hội. Buộc nhà nước phải can thiệp thông qua BHXH vì vậy BHXH ra đời mang tính tất yếu khách quan. BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh không đều theo không gian và thời gian. Điều này thể hiện rõ trong nội dung cơ bản của BHXH, từ thời điểm triển khai BHXH, người tham gia BHXH, mức đóng góp. Từ việc rủi ro phát sinh theo không gian, thời gian, đến mức trợ cấp cho từng chế độ, từng đối tượng. BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời có tính dịch vụ. Tính kinh tế được thể hiện qua việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH sao cho hợp lúy, có hiệu quả nhất. Tính xã hội được thể hiện ở việc BHXH được sử dụng nhằm đảm bảo ổn định cho những người lao dộng và gia đình họ. BHXH thể hiện tính dịch vụ của nó thông qua họa động dịch vụ tài chính ( thông qua nguồn vốn nhàn rỗi ) Những nguyên tắc về BHXH: Là sự đảm bảo về mặt xã hội: Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của BH, nó vừa mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể hiện trước hết là sự đảm bảo về vật chất ( qua các chế độ BHXH ). Mức đảm bảo về vật chất cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hưởng tới sự phát tiển của BHXH, BHXH là lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là cơ sở để đảm bảo cho quãng đời không tham gia và lao động ( mất sức lao đông hay cao tuổi). BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện: Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu. Như vậy, nhà nước đóng vai trò tổ chức, định hướng để người lao động và người sử dụng lao động hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ về BHXH. Điều này được thể chế hóa trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích mức tham gia, các loại hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hế thống BHXH của một số nước trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH có điều kiện và phát triển mở rộng hơn. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH: Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các vấn đề có liên quan đến việc thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối thiểu của từng chế độ BHXH là mức đóng định kỳ ( hàng tháng ), mức thời gian tối thiểu để tham gia và được hưởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi thiết kế thường dựa vào tiền lương tối thiểu, tiền lương bình quân, quảng đời lao động…Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến giá trị của các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên tác này liên quan trực tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích người lao động và các tầng lớp xã hội tham gia. BHXH phải đảm bảo tính thống nhất và liên tục cả về mức tham gia và thời gian thực hiện, đảm bảo quyền lợi của người lao động: Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm trí mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơi làm việc và thay đổi hợp đồng lao động…Điều này có thể xảy ra trong các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo cho người tham gia BHXH có thể duy trì một cách liên tục theo thời gian có tham gia và thống nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận tiện cho người lao động tham gia vào các quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia và thời gian thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất để duy trì quan hệ BHXH đối với người lao động. Công bằng trong xã hội: Đây là nguyên tắc quan trọng xong cũng rất phức tạp trong chính sách BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiện trong một thời gian dài, cả trong và ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó có thể có sư thay đổi diễn ra. Mức và thời gian của từng người và mức hưởng lương của họ cũng có thể không giống nhau. Việc theo rõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản, nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt về đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay. Do vậy, đảm bảo công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó đảm bảo tính tuyệt đối. Sự công bằng trước hết phải đặt trong quan hệ giữa đóng góp và được hưởng. Điều này được thể hiện trong nội dung và điều kiện tham gia từng chế độ về BHXH. Xét trên góc độ khác, công bằng được đặt trong các quan hệ xã hội giữa những người tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa bàn, nghành nghề khác nhau…dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo hiểm. Những quan điểm cơ bản về BHXH: Hiện nay có 5 quan điểm về BHXH như sau: BHXH là một trong những chính sách XH cơ bản nhất của mỗi quốc gia, nó thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia Mọi người lao động trong xã hội đều có quyền bình đẳng trước BHXH không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ BHXH đối với người mà họ sử dụng. + Họ phải đóng góp vào quỹ BHXH một khoản tiền nhất định so với tổng quỹ lương. + Họ phải thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với những người lao động mà mình sử dụng. Các mức hưởng BHXH phụ thuộc vào 5 yếu tố sau: + Tình trạng sức khỏe, thương tật, thông qua dám định y khoa + Ngành nghề công tác của người lao động + Thời gian công tác và tiền lương của người lao động + Mức đóng góp BHXH và thời gian đóng góp + Tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia + Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước qua từng thời kỳ. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp BHXH từ việc ban hành các chính sách và tổ chức bộ máy thực hiện các chính sách BHXH Quỹ BHXH: Khái niệm: Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Nguồn quỹ BHXH: Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây: + Người sử dụng lao động đóng góp + Người lao động đóng góp + Nhà nước đóng và hổ trợ thêm + Các nguồn khác ( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi ) Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sỡ quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ trách được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ và thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần dể BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động. BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sỡ vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hổ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn trở thành chổ dựa để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau. Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhât cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quôc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chiệu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chiệu toàn bộ chi phí quản lý BHXH v.v… Mức đóng góp của một số nước trên thế giới Tên nước Chính phủ Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương (%) Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương (%) CHLB Đức CH Pháp Indonexia Philipin Malaixia Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Chi toàn bộ chế độ ốm đau, thai sản 14,8 – 18,8 11,82 3,0 2,85 – 9.25 9,5 16,3 – 22,6 19,68 6,5 6,85 – 8,05 12,75 (Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới) Ở nước ta, từ năm 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ 2 nguồn: Các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp, phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất là không tồn tại quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay, các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, trong đó văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây: Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó, 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. + Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất. + Nhà nước đóng và hổ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động. + Các nguồn khác. Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau: + Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sỡ xác định mức đóng phí. + Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng. + Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức hưởng BHXH này có thể xác định mức phí phải đóng. Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH vẫn phải đảm bảo các nguyên tắc: Cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất. Phí BHXH xác định theo công thức: P = f1 + f2 + f3 Trong đó: P – Phí BHXH F1 – Phí thuần tuý trợ cấp BHXH F2 – Phí dự phòng F3 – Phí quản lý
Luận văn liên quan