Về BHNT, có rất nhiều khái niệm khác nhau, thực tế, BHNT l à sự
cam kết giữa công ty bảo hiểm với ng ười tham gia bảo hiểm về việc
công ty b ảo hiểm có trách nhiệm trả cho người tham gia bảo hiểm (hoặc
ngư ời thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có
những sự kiện đ ã đ ịnh tr ước xảy ra (người đ ược bảo hiểm bị chết hay
sống đến một thời điểm đ ược xác định trong hợp đồng) còn ng ười tham
gia b ảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói
cách khác, BHNT là quá trình b ảo hiểm các rủi ro có li ên quan đ ến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Tuy nhiên, đứng trên góc đ ộ pháp lý, kỹ thuật tồn tại những khái
niệm khác về BHNT đó là:
*Về mặt pháp lý: BHNT là b ản hợp đồng trong đó để nhận đ ược
phí b ảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (người ký kết hợp đồng) thì
ngư ời bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một người hay nhiều ng ười thụ
hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định (đó là số tiền b ảo hiểm hay một
khoản trợ cấp) trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay người
được bảo hiểm sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng.
*Về mặt kỹ thuật:BHNT là nghiệp vụ bao hàm những cam kết m à
sự thi hành những cam kết này phụ thu ộc chủ yếu vào tuổi thọ của con
ngư ời.
122 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3050 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm nhân thọ và an sinh giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
---***---
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI :
Bảo hiểm nhân thọ và an sinh giáo dục
2
Chương I:
KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ
SẢN PHẨM BẢO HIỂM AN SINH GIÁO DỤC
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ (BHNT) VÀ SẢN PHẨM BẢO
HIỂM AN SINH GÍAO DỤC (ASGD)
1. Khái niệm
Về BHNT, có rất nhiều khái niệm khác nhau, thực tế, BHNT là sự
cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm về việc
công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả cho người tham gia bảo hiểm (hoặc
người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có
những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hay
sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng) còn người tham
gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói
cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Tuy nhiên, đứng trên góc độ pháp lý, kỹ thuật tồn tại những khái
niệm khác về BHNT đó là:
*Về mặt pháp lý: BHNT là bản hợp đồng trong đó để nhận được
phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (người ký kết hợp đồng) thì
người bảo hiểm cam kết sẽ trả cho một người hay nhiều người thụ
hưởng bảo hiểm một số tiền nhất định (đó là số tiền bảo hiểm hay một
khoản trợ cấp) trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay người
được bảo hiểm sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng.
*Về mặt kỹ thuật: BHNT là nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà
sự thi hành những cam kết này phụ thuộc chủ yếu vào tuổi thọ của con
người.
3
Như vậy BHNT giải quyết nỗi lo âu về mặt an toàn trong đời sống nhưng nó
chỉ gắn với các biến cố liên quan đến bản thân con người như: tử vong, tai nạn,
sống sót v.v. Đôi khi các sự cố không phải luôn tương ứng với các thiệt hại.
2. Lịch sử ra đời
2.1. Trên thế giới
Cũng giống như các loại hình bảo hiểm khác, BHNT tuân theo quy luật
“lấy số đông bù số ít” tức là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài
người trong số họ phải gánh chịu. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được
ghi vào lịch sử là năm 1583 ở London của Vương Quốc Anh và hợp đồng
BHNT đầu tiên được ký kết với ông William Gibbons. Trong hợp đồng thoả
thuận rằng một nhóm người góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào
trong số họ bị chết trong vòng 1 năm. Lúc đó, ông William Gibbons tham gia
và phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm
đó người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.
Như vậy, BHNT có phôi thai từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát
triển ở một số nước do thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, và vì nó giống như một trò
chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên án với lý do lạm dụng cuộc sống con người,
nên BHNT phải tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, sau đó do sự
phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm
vào đó là sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có
điều kiện phát triển trên phạm vi rộng lớn. Đến năm 1759 công ty BHNT
đầu tiên mới ra đời, Công ty Bảo hiểm Philadenphia của Mỹ. Công ty đó
đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con
chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở Anh được
thành lập và bán BHNT cho mọi người dân. Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên
ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến
năm 1888 và 1889, hai công ty khác là Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho
đến nay.
1
4
Năm 1860 bắt đầu xuất hiện mạng lưới đại lý BHNT. Trên thế giới,
BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT
mới chỉ đạt 630,5 tỷ USD, năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ USD và năm 1993
con số này là 1647 tỷ USD chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm.
Bảng 1: Phí BHNT của một số nước trên thế giới năm 1993
Tên nước
Phí BHNT
(tr. USD)
Cơ cấu phí
BHNT
(%)
Phí BHNT trên
đầu người
(USD/nghìn
người)
Tỷ lệ phí
BHNT trên
GDP
(%)
Hàn Quốc 28717,43 79,66 651201 8,68
Nhật Bản 236458,62 73,86 1909870 5,61
Đài loan 6799,60 68,77 325311 3,14
Singapore 1039,92 62,42 358620 1,89
Philipine 736,74 59,43 11294 1,38
Thái lan 1141,21 43,64 19470 0,92
Malaisia 924,9 46,54 48125 1,43
Indonesia 373,98 30,25 1974 0,26
Mỹ 216510,74 41,44 838223 3,41
Đức 42689,00 39,38 524138 2,25
Pháp 47673,24 56,55 826320 3,80
Anh 66094,84 64,57 1141450 7,00
(Nguồn: Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam tháng 8/1996)
Qua số liệu ở bảng trên ta nhận thấy hầu hết phí bảo hiểm nhân thọ ở các
nước có nền kinh tế phát triển là tương đối cao, cao nhất là Nhật Bản với tổng
số phí là 236,458 tỷ USD. Đối với các nước ở khu vực Đông Nam Á, những
nước mà có nền kinh tế có những nét tương đồng như chúng ta, nhìn chung
phí BHNT còn thấp, so với các nước trong khu vực thì Thái Lan là nước đứng
đầu về doanh thu phí BHNT, tỷ lệ phí BHNT và phi nhân thọ của nước này là
tương đối gần bằng nhau.
Bảng 1: Phí BHNT một số nước trên thế giới năm 2000
Đơn vị: Triệu USD
Mỹ Anh Nhật Bản Hàn Singa- Malays-ia Thailan Indones-ia
5
Quốc pore
344267 99023 305313 58337 3482 2853 1859,5 916
(Nguồn: Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, tháng 2 năm 2001)
Từ bảng 1 và bảng 1’, so sánh số liệu năm 2000 với năm 1993 ta thấy
doanh thu phí BHNT ở tất cả các nước này đều tăng, đặc biệt tại thị trường
Mỹ tăng doanh thu phí năm 2000 tăng 127,756 tỷ USD tức tăng 59% so với
doanh thu năm 1993 và tại Nhật Bản năm 2000 tăng 68,854 tỷ USD tức tăng
29% so với năm 1993. Từ đây chúng ta tin tưởng rằng BHNT ở nước ta chắc
chắn sẽ không nằm ngoài xu thế chung của thế giới.
2.2.Tại Việt Nam
Trước năm 1954, ở miền Bắc nước ta, những người làm việc cho
Pháp đã mua BHNT và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi từ các
hợp đồng bảo hiểm này. Các hợp đồng bảo hiểm trên đều do các công
ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện.
Sau năm 1954, ở miền Bắc, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây
hay Tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là BAOVIET)
là doanh nghiệp bảo hiểm đầu tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đã ra đời ngày 17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính thức từ
ngày 15/01/1965. Cùng trong khoảng thời gian đó (những năm 1970,
1971), ở Miền Nam công ty bảo hiểm Hưng Việt thuộc Ngụy quyền Sài
Gòn đã triển khai một số loại hình BHNT như : An sinh giáo dục, bảo
hiểm Trường sinh (BHNT cả đời), bảo hiểm có thời hạn 5 năm, 10 năm
hay 20 năm. Nhưng công ty này hoạt động trong thời gian rất ngắn chỉ
1-2 năm nên hầu hết người dân chưa biết nhiều về loại hình bảo hiểm
này. Kể từ đó cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một doanh
nghiệp bảo hiểm là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET) trực
thuộc Bộ Tài chính.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công
cuộc đổi mới về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
6
tạo ra tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới,
đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nêu rõ : “Khuyến khích phát triển, đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh tế và mở cửa hợp tác với nước
ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa đã thể
hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là ngày 18/12/1993
Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành Nghị định
100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành
đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện kinh
tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm
dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo
Nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp cổ phần, hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh
với nước ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể
nói đây là thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường
Việt Nam.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT,
trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát
triển nghiệp vụ bảo hiểm này. Ngày 22/6/1996, sự ra đời của công ty
BHNT chính thức đầu tiên ở Việt Nam đã khẳng định rõ sự quan tâm
của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô.Tiếp đến, năm 1999 với sự tham
gia của một số công ty BHNT có vốn nước ngoài thị trường BHNT Việt
Nam đã trở lên sôi động hơn và phong phú hơn, giúp cho người dân có
thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Cho đến nay
thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam
đó là:
7
- Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn
trong nước, đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt
động lâu nhất: vốn kinh doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp
đồng đầu tiên ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ
hạn.
- Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai
trương hoạt động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu
USD, thời gian hoạt động 50 năm.
- Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là
công ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt
(40 triệu USD), khai trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có
thời gian hoạt động là 50 năm.
- Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và
Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt
động ngày 12/10/1999, vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời
gian hoạt động 30 năm.
- AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương
hoạt động 22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời
gian hoạt động là 50 năm.
- Ngày 27/8/2002, công ty ACE INA International holdings Ltd.,
đã chính thức nộp đơn xin cấp giấy phép kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ lên Bộ Tài Chính sau 6 năm có mặt tại Việt nam.
Kể từ 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu
lực tạo ra hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của
ngành kinh doanh bảo hiểm trong xã hội Việt Nam.
3.Sự cần thiết của BHNT
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có
nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro xảy ra do nhiều
8
nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa
học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất cũng như tạo điều kiện
thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn
bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao động...
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây ra rủi ro cho con người, bởi khi xã hội càng phát triển thì con người càng
có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con
người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài
chính gia đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với
những rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát
cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp
kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp: né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử
dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Mặc dù, biện pháp
này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống
nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi
ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với
mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp
nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho
bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa và bảo hiểm là phương
pháp tốt để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các
chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan
điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự di chuyển rủi ro trên cơ sở
hợp đồng. Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà
9
còn là sự giảm rủi ro về số lượng cũng như mức độ. Do việc tập trung vào tay
người bảo hiểm một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất
khi chúng xảy ra nên người bảo hiểm với kinh nghiệm và phương tiện của
mình sẽ có những biện pháp để giảm thiểu số lượng và mức độ xảy ra rủi
ro.Vì vậy, bảo hiểm là công cụ đối phó hiệu quả nhất với hậu quả tổn thất do
rủi ro gây ra. Như vậy, bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng ra đời là đòi
hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào
sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành
một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước
đang phát triển. Ở châu Á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh
mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn
đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn
nước ngoài với lãi suất cao.
BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết
một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu
hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động
của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công
ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Ở Việt Nam BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn
hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được
một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia
bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa
nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng
thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước. Theo số
liệu của Kinh tế 2000-2001 Việt Nam & Thế giới thì tổng doanh thu phí
BHNT năm 2000 đạt 1117 tỷ đồng còn trong năm 2001 theo số liệu của công
ty Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội 1/2002 doanh thu phí BHNT trên toàn thị
trường đạt 2377,499 tỷ đồng (chiếm khoảng 0,55% GDP). Như vậy số vốn
10
nhàn rỗi trong dân cư thông qua nghiệp vụ BHNT đã được “hút” lại để đầu tư
phát triển kinh tế.
4. Vai trò và vị trí của BHNT
4.1. Vai trò của BHNT
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia hoặc
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái không
thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát triển càng
có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe doạ cuộc sống
con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia đình cũng như
xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì bản thân hoặc
người thân, gia đình của bạn sẽ được đảm bảo về mặt tài chính bù đắp phần
nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi ro không xảy ra, thông qua
một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn
hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền bảo hiểm cùng với lãi.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước và
tăng thêm quyền lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải chi
ra một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân và các công ty gặp rủi ro
dưới hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản chi
này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ lại
không cố gắng đối với cá nhân cũng như tổ chức vì đã có người khác chịu
trách nhiệm giúp mình. Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia đã có thể
tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo ra một
khoản tiết kiệm. Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tự nguyện người lao
động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tự lo được cho bản thân giảm
gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to
11
lớn khi tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến
BHNT, nhờ đó lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên. Việt
Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất nước
để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn.
Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của BHNT nên tuy mới ra đời được
5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều kiện
cho BHNT ngày một phát triển mà bước tiến quan trọng là sự cho phép các
công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT Việt Nam và sự ra
đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Với chủ trương là chủ yếu dựa vào
nguồn nội lực và tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông
qua BHNT có thể trong thời gian tới thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân cư nhiều hơn nữa. Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước ngoài tham gia
vào thị trường BH Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư vào cũng sẽ rất lớn.
Thêm vào đó, do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn vốn huy
động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài và đây là nguồn vốn
tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động.
Với dân số gần 80 triệu (theo Niên gíam thống kê 2000) lại là dân số trẻ,
việc làm luôn là vấn đề nóng bỏng khi mà lượng người không có việc làm
ngày càng nhiều trong đó ngoài những người không có trình độ thì cũng có rất
nhiều người có trình độ không được sử dụng đúng mục đích. Hoạt động
BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ nhân
viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy, phát triển BHNT đã
góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số lượng người thất nghiệp,
bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Cứ nói riêng ở công ty BHNT Hà
Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên dưới 50 người,
riêng nội thành đã có 18 phòng khai thác, đa số đều là các cán bộ chuyên
nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác ở từng quận huyện.
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp phần
12
tạo nên một tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan trọng
và phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho giáo dục
ngày một tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên cạnh các
biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các cơ quan
trong và ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính nhất thời,
không ổn định, tham gia BH An sinh giáo dục là một biện pháp hợp lý để đầu
tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường xuyên của gia đình.
Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội vì đầu tư
cho tương lai con em mình không chỉ là trách nhiệm của xã hội mà còn là
trách nhiệm của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua
việc tạo cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai của
người thân, đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và sống có
trách nhiệm đối với người khác.
Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số
vấn đề xã hội như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn
thất, bất hạnh trong cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã hội
đối với người lao độn