Đề tài Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng - Hải phòng

1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Đất nước ta đang bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên đánh dấu một thời kì cả dân tộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội Đảng IX đã khẳng định nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về GD&ĐT. Đến Đại hội Đảng X tiếp tục chỉ rõ: "Giáo dục phải nhằm đào tạo những con người Việt Nam có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, có năng lực, bản lĩnh để thích ứng với những biến đổi của xã hội trong kinh tế thị trường, những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".[42] Như vậy chỉ có phát triển giáo dục thì mới mở ra tương lai tươi sáng cho đất nước. Bởi lẽ giáo dục nói chung, dạy học nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đó là những người lao động có kỹ thuật, có tay nghề thành thạo, có khả năng thích ứng, khả năng giao tiếp - được đào tạo và bồi dưỡng bởi nền giáo dục tiên tiến gắn với khoa học công nghệ hiện đại. Mà muốn phát triển giáo dục và đào tạo thì cần phải chú ý ngay bậc học đầu tiên - bậc học nền tảng - bậc tiểu học. Nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học là tạo ra nền tảng vững chắc để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Vì vậy mục tiêu phát triển giáo dục tiểu học từ nay đến năm 2020, Nghị quyết Tung ương II đã chỉ rõ: “ Cần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc tiểu học”. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc tiểu học, phải xây dựng một nền giáo dục theo định hướng: “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Muốn thực hiện định hướng này phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó đổi mới công tác quản lý giáo dục là một giải pháp quan trọng. 1.2. Có thể nói, hoạt động chủ yếu trong nhà trường là hoạt động chuyên môn. Các tổ chuyên môn là tổ chức quan trọng và nòng cốt trong các nhà trường nói chung, nhà trường tiểu học nói riêng. Bởi lẽ hoạt động chủ yếu của nhà trường là hoạt động chuyên môn, vì vậy tổ chuyên môn là đơn vị cơ sở gắn bó với người giáo viên giảng dạy. ở đây diễn ra mọi hoạt động có liên quan đến toàn bộ hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên. Tổ chuyên môn cũng là nơi người giáo viên có thể chia sẻ mọi tâm tư, nguyện vọng cũng như những vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp, đời sống vật chất và tinh thần của mình. Hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường có vai trò quyết định cho sự phát triển của nhà trường nói riêng và sự phát triển giáo dục nói chung. Có thể nói hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng dạy học của các trường tiểu học hiện nay. Do đó, quản lí hoạt động chuyên môn là nhiệm vụ hàng đầu, là trọng tâm trong quá trình quản lí của người hiệu trưởng. 1.3. Chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào quá trình quản lí của người hiệu trưởng đối với tổ. Các tổ chuyên môn trong nhà trường do hiệu trưởng thành lập và ra quyết định công nhận để giúp hiệu trưởng thực hiện nhiệm vụ năm học, thực hiện chương trình đào tạo của nhà trường. Sự quản lý của hiệu trưởng đối với tổ chuyên môn là kim chỉ nam cho hoạt động của tổ để đạt được mục đích của nhà trường. Qua nhiều năm công tác ở trường tiểu học, từ giáo viên đến tổ trưởng chuyên môn, rồi là người quản lý nhà trường, bản thân tôi thấy rõ vai trò quyết định của việc quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động của tổ chuyên môn trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Xuất phát từ những lý do trên, tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu đề tài: "Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng - Hải phòng" 2 - Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu thực trạng hoạt động của tổ chuyên môn và các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên đề của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng . - Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học trong trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng. 3- Đối tượng và khách thể nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học. 3.2. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học. 4- Giả thuyết khoa học: Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng đã đạt được những kết quả nhất định, làm cho chất lượng dạy học được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, còn có những điều chưa phù hợp và bất cập nhất định. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý phù hợp sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động tổ chuyên môn , nhờ đó nâng cao được chất dạy học của nhà trường. 5 - Nhiệm vụ nghiên cứu: 5.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài. 5.2. Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng một số trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 5.3. Đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng tiểu học và khảo sát tính khả thi của các biện pháp đó. 6 - Phạm vi nghiên cứu: 6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Do điều kiện thời gian đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng một số trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 6.2. Giới hạn về khách thể điều tra: - Đại diện Phòng giáo dục: 3 đồng chí. - 30 cán bộ quản lý của 10 trường tiểu học trong quận Hồng Bàng – Hải Phòng . - 51 tổ trưởng, tổ phó chuyên môn của 10 trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng. - 95 giáo viên trong các trường tiểu học của quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Các trường TH của quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 7- Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, nghiên cứu các tài liệu có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra viết, tổng kết kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia. - Các phương pháp toán thống kê : Dùng một số công thức toán thống kê để xử lí kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học. 8- Dự kiến cái mới của đề tài: - Phát hiện thực trạng quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng. - Đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng trong các trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng.

doc112 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 8348 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng - Hải phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Đất nước ta đang bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên đánh dấu một thời kì cả dân tộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội Đảng IX đã khẳng định nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá nên cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về GD&ĐT. Đến Đại hội Đảng X tiếp tục chỉ rõ: "Giáo dục phải nhằm đào tạo những con người Việt Nam có lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có phẩm chất tốt đẹp của dân tộc, có năng lực, bản lĩnh để thích ứng với những biến đổi của xã hội trong kinh tế thị trường, những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".[42] Như vậy chỉ có phát triển giáo dục thì mới mở ra tương lai tươi sáng cho đất nước. Bởi lẽ giáo dục nói chung, dạy học nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Đó là những người lao động có kỹ thuật, có tay nghề thành thạo, có khả năng thích ứng, khả năng giao tiếp - được đào tạo và bồi dưỡng bởi nền giáo dục tiên tiến gắn với khoa học công nghệ hiện đại. Mà muốn phát triển giáo dục và đào tạo thì cần phải chú ý ngay bậc học đầu tiên - bậc học nền tảng - bậc tiểu học. Nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học là tạo ra nền tảng vững chắc để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Vì vậy mục tiêu phát triển giáo dục tiểu học từ nay đến năm 2020, Nghị quyết Tung ương II đã chỉ rõ: “ Cần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc tiểu học”. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện bậc tiểu học, phải xây dựng một nền giáo dục theo định hướng: “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”. Muốn thực hiện định hướng này phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó đổi mới công tác quản lý giáo dục là một giải pháp quan trọng. 1.2. Có thể nói, hoạt động chủ yếu trong nhà trường là hoạt động chuyên môn. Các tổ chuyên môn là tổ chức quan trọng và nòng cốt trong các nhà trường nói chung, nhà trường tiểu học nói riêng. Bởi lẽ hoạt động chủ yếu của nhà trường là hoạt động chuyên môn, vì vậy tổ chuyên môn là đơn vị cơ sở gắn bó với người giáo viên giảng dạy. ở đây diễn ra mọi hoạt động có liên quan đến toàn bộ hoạt động nghề nghiệp của người giáo viên. Tổ chuyên môn cũng là nơi người giáo viên có thể chia sẻ mọi tâm tư, nguyện vọng cũng như những vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp, đời sống vật chất và tinh thần của mình. Hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường có vai trò quyết định cho sự phát triển của nhà trường nói riêng và sự phát triển giáo dục nói chung. Có thể nói hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường là nhân tố quyết định trực tiếp đến chất lượng dạy học của các trường tiểu học hiện nay. Do đó, quản lí hoạt động chuyên môn là nhiệm vụ hàng đầu, là trọng tâm trong quá trình quản lí của người hiệu trưởng. 1.3. Chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn trong nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào quá trình quản lí của người hiệu trưởng đối với tổ. Các tổ chuyên môn trong nhà trường do hiệu trưởng thành lập và ra quyết định công nhận để giúp hiệu trưởng thực hiện nhiệm vụ năm học, thực hiện chương trình đào tạo của nhà trường. Sự quản lý của hiệu trưởng đối với tổ chuyên môn là kim chỉ nam cho hoạt động của tổ để đạt được mục đích của nhà trường. Qua nhiều năm công tác ở trường tiểu học, từ giáo viên đến tổ trưởng chuyên môn, rồi là người quản lý nhà trường, bản thân tôi thấy rõ vai trò quyết định của việc quản lý của hiệu trưởng đối với hoạt động của tổ chuyên môn trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Xuất phát từ những lý do trên, tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu đề tài: "Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng - Hải phòng" 2 - Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu thực trạng hoạt động của tổ chuyên môn và các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên đề của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng . - Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học trong trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng. 3- Đối tượng và khách thể nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học. 3.2. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học. 4- Giả thuyết khoa học: Công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng các trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng đã đạt được những kết quả nhất định, làm cho chất lượng dạy học được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, còn có những điều chưa phù hợp và bất cập nhất định. Nếu đề xuất được các biện pháp quản lý phù hợp sẽ nâng cao được chất lượng hoạt động tổ chuyên môn , nhờ đó nâng cao được chất dạy học của nhà trường. 5 - Nhiệm vụ nghiên cứu: 5.1. Xây dựng cơ sở lí luận của đề tài. 5.2. Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng một số trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 5.3. Đề xuất những biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng tiểu học và khảo sát tính khả thi của các biện pháp đó. 6 - Phạm vi nghiên cứu: 6.1. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Do điều kiện thời gian đề tài chỉ nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng một số trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 6.2. Giới hạn về khách thể điều tra: - Đại diện Phòng giáo dục: 3 đồng chí. - 30 cán bộ quản lý của 10 trường tiểu học trong quận Hồng Bàng – Hải Phòng . - 51 tổ trưởng, tổ phó chuyên môn của 10 trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng. - 95 giáo viên trong các trường tiểu học của quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 6.3. Giới hạn về địa bàn nghiên cứu: Các trường TH của quận Hồng Bàng – Hải Phòng . 7- Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, nghiên cứu các tài liệu có liên quan. - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra viết, tổng kết kinh nghiệm, phương pháp chuyên gia. - Các phương pháp toán thống kê : Dùng một số công thức toán thống kê để xử lí kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khoa học. 8- Dự kiến cái mới của đề tài: - Phát hiện thực trạng quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng. - Đề xuất được các biện pháp quản lý hoạt động tổ chuyên môn của hiệu trưởng trong các trường tiểu học quận Hồng Bàng – Hải Phòng. CHƯƠNG 1 Cơ sở lý luận của đề tài 1.1. Một số nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề: Ngay từ trong xã hội nguyên thuỷ, con người phải sống theo bầy, đàn, phải đoàn kết nhau lại để đủ sức mạnh chống chọi với thiên nhiên, thú dữ thì nhu cầu tổ chức, QL một đám đông ô hợp thành một tập thể có sức mạnh thống nhất vì mục đích sinh tồn chung của mọi người cũng đã manh nha như một tất yếu, tự nhiên. Như vậy có thể khẳng định : trong xã hội loài người, những HĐ nào có từ hai cá thể trở lên thì đều phải có HĐ QL. QL là một khái niệm rộng bao gồm nhiều nội dung, gắn liền với nhiều HĐ của con người và nó phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. QL gắn liền với các HĐ xã hội nên nó mang tính phổ biến, đó là: " Tất cả mọi lao động trực tiếp và tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những HĐ cá nhân và thực hiện những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng" . [12] Như vậy C.Mác đã miêu tả đầy đủ bản chất QL là một loại lao động để điều khiển lao động- một HĐ tất yếu, rất quan trọng trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội loài người. GD là một hiện tượng xã hội đặc biệt, được sinh ra và tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội loài người . Đó là một HĐ không thể thiếu trong việc phát triển của xã hội loài người vì nó tác động đến mọi HĐ khác trong xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, loài người bước vào thế kỷ của nền kinh tế tri thức thì GD càng giữ một vị trí quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết trong chiến lược phát triển đất nước của mọi quốc gia. ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ vĩ đại đã từ rất sớm nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của GD nên ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước ta đã bắt tay ngay vào "diệt" ba thứ giặc, trong đó có "giặc dốt". Và hiện chúng ta đang ở trong thời kì "công nghiệp hoá - hiện đại hoá " đất nước thì GD cũng đã được nghị quyết của Đảng khẳng định là: "Quốc sách hàng đầu". Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: "Để thực hiện được mục tiêu chiến lược mà Đại hội VIII đã đề ra cần phải khai thác và sử dụng nhiều nguồn nhân lực khác nhau, trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt là đối với nước ta khi nguồn lực tài chính còn hạn hẹp. Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và được phát huy bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với khoa học, công nghệ hiện đại. GD phải làm tốt nhiệm vụ đào tạo nguồn lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học và công nghệ".[42] Như vậy mục đích của GD ngày nay không đơn thuần là truyền thụ cho HS những tri thức mà loài người đã tích luỹ được qua nhiều thế hệ mà còn phải bồi dưỡng cho HS biết làm chủ bản thân, độc lập trong suy nghĩ, tích cực tìm tòi phát hiện ra cái mới trong học tập và nghiên cứu ; biết tự giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong các HĐ hàng ngày của bản thân . Đó chính là GD đã trang bị cho họ những năng lực cần thiết của người lao động mới- lao động có trí tuệ: Năng lực tự học, tự nghiên cứu; năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề mới nảy sinh; năng lực giao tiếp, khả năng sáng tạo…Để làm được việc này ngành GD nói chung và các nhà QL GD nói riêng đã tích cực tìm ra được những giải pháp phù hợp để nâng cao chất lượng GD. Và một trong những giải pháp đó chính là đổi mới cơ chế QL GD từ cấp vĩ mô đến cấp vi mô là các nhà trường. Các nhà nghiên cứu đều đã thống nhất chung một quan điểm là làm công tác QL GD phải không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng điều hành và QL của mình để qua đó tác động một cách có hiệu quả vào quá trình cải tiến chất lượng ở các khâu, các bộ phận của hệ thống GD. Đặc biệt việc QL HĐ GD trong nhà trường có vai trò quyết định đến chất lượng GD của nhà trường. Mà việc QL HĐ GD của nhà trường chính là QL HĐ của đội ngũ GV trong nhà trường . Chính trong các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về QL GD Xô Viết đã khẳng định: "Kết quả toàn bộ hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý các HĐ của đội ngũ GV". Trong nhà trường phổ thông, đội ngũ GV lại được sắp xếp theo từng tổ CM nên việc QL HĐ của đội ngũ GV đối với người HT chính là QL HĐ của tổ CM trong nhà trường. Suy cho cùng, mục đích của công việc QL này là nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của nhà trường : nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường. Điều này đã được khẳng định trong Luật GD năm 2005: "Tuy không trực tiếp tham gia vào HĐ dạy và học, nhưng cán bộ QL GD bằng những HĐ QL của mình tác động vào quá trình GD nhằm hướng cho HĐ dạy và học đạt được những mục tiêu yêu cầu của GD và bảo đảm chất lượng GD".[33] QL CM để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường thì đã có rất nhiều công trình, nhiều đề tài nghiên cứu. Riêng trong khoa QL GD của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã có trên 40 đề tài nghiên cứu QL CM ở nhiều khía cạnh khác nhau và phân bố ở tất cả các bậc học từ Mầm non, TH, Trung học đến các Trung tâm dạy nghề cũng như các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp. Song việc QL HĐ tổ CM của HT trường TH thì chưa có đề tài nào đề cập đến. Vì vậy tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài :"Các biện pháp QL HĐ tổ CM của HT các trường TH quận HB - HP". 1.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường tiểu học: 1.2.1. Quản lý: Trong xã hội loài người, QL là một HĐ bao trùm mọi mặt đời sống xã hội. Nó ra đời khi xã hội cần có sự chỉ huy, điều hành, phân công, hợp tác, kiểm tra, chỉnh lý trong lao động tập thể trên một quy mô nào đó để đạt năng suất cao hơn, hiệu quả tốt hơn, đó là vai trò của người đứng đầu. Như vậy QL là một phạm trù tồn tại khách quan và là một tất yếu lịch sử. Loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều hình thái xã hội khác nhau, nên cũng đã trải qua nhiều hình thức QL khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi trọng vai trò của QL trong sự ổn định và phát triển của xã hội. Người ta tiếp cận khái niệm QL nhiều cách khác nhau. Đó là : cai quản, chỉ huy, lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra- theo góc độ tổ chức. Theo góc độ điều khiển thì QL là lái, là điều khiển, điều chỉnh. Theo cách tiếp cận hệ thống thì QL là sự tác động của chủ thể QL đến khách thể QL (hay là đối tượng QL) nhằm tổ chức, phối hợp HĐ của con người trong quá trình sản xuất - xã hội để đạt được mục đích đã định. Còn trong quá trình tồn tại và phát triển của QL, đặc biệt trong quá trình xây dựng lý luận về QL, khái niệm QL được nhiều nhà lý luận đưa ra, nó thường phụ thuộc vào lĩnh vực HĐ, nghiên cứu của mỗi người. Chẳng hạn: Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê Nin đã khẳng định: "Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào được thực hiện ở quy mô tương đối lớn đều cần đến sự QL".[12] Theo Harold Koontz-1994, trong tác phẩm "Những vấn đề cốt yếu của QL" thì :"QL là một HĐ thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm".[21] Khi nói về vai trò của QL trong xã hội, ý kiến của Paul Hersey và Ken Blanc Heard trong cuốn "QL nguồn nhân lực" cho rằng: "QL là một quá trình cùng làm việc giữa nhà QL với người bị QL, nhằm thông qua HĐ của cá nhân, của nhóm, huy động các nguồn lực khác để đạt mục tiêu của tổ chức".[32] Và theo các nhà xã hội học Kozlova.O.V và Kuznetsov.I.N thì: "QL là sự tác động có mục đích đến từng tập thể con người để tổ chức và phối hợp HĐ của họ trong quá trình sản xuất". Còn quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam về QL như sau: Theo từ điển tiếng Việt:"QL là HĐ của con người tác động vào tập thể người khác để phối hợp điều chỉnh phân công thực hiện mục tiêu chung". Giáo trình "QL GD và đào tạo" của trường Cán bộ QL GD&ĐT, nêu rằng: + QL là tác động vừa có tính khoa học, vừa có tính nghệ thuật vào hệ thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội. + QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng, và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định. + QL là sự tác động có ý thức, hợp quy luật giữa chủ thể QL đến khách thể QL nhằm đạt tới mục tiêu đề ra. + QL là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL lên đối tượng QL và khách thể QL, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.[17] Giáo sư Hà Thế Ngữ và giáo sư Đặng Vũ Hoạt cho rằng: "QL là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, QL một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định".[27] ý kiến của giáo sư Mai Hữu Khuê: "HĐ QL là một dạng HĐ đặc biệt của người lãnh đạo mang tính tổng hợp của các loại lao động trí óc, liên kết bộ máy QL thành một chỉnh thể thống nhất điều hòa phối hợp các khâu và các cấp QL làm cho HĐ nhịp nhàng đưa đến hiệu quả".[16] Theo tác giả Nguyễn Bá Sơn-2000 thì:"QL là sự tác động có hướng đích của của chủ thể QL đến đối tượng QL bằng một hệ thống các giải pháp nhằm thay đổi trạng thái của đối tượng QL, đưa hệ thống tiếp cận mục tiêu cuối cùng, phục vụ lợi ích của con người".[14] Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo-1997 thì :" QL là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi HĐ của con người nhằm đạt tới mục đích đã đề ra".[14] Theo tác giả Hà Sỹ Hồ thì:" QL là một quá trình HĐ có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong các tác động có thể dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục đích đã định". [20] Từ các định nghĩa nêu trên, dưới các góc độ khác nhau, chúng ta có thể hiểu một cách khái quát là: QL một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học, địa phương,…) với tư cách là một hệ thống xã hội, là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống, vào từng thành tố của hệ thống bằng phương pháp thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Như vậy khái niệm QL bao hàm những khía cạnh sau: - Đối tượng tác động của QL là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định tồn tại trong thời gian, không gian cụ thể. Ví dụ: Một doanh nghiệp, một trường học, một cơ quan, một quốc gia,… - Hệ thống QL gồm có hai phân hệ : chủ thể QL và khách thể QL. - Tác động QL thường mang tính tổng hợp bao gồm nhiều giải pháp khác nhau. - QL là HĐ trí tuệ mang tính sáng tạo bằng những quyết định đúng quy luật và có hiệu quả QL nhưng cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định hướng đến mục tiêu. - Mục tiêu cuối cùng của QL là chất lượng sản phẩm, vì lợi ích phục vụ con người . Người QL tựu chung lại là nghiên cứu khoa học, nghệ thuật giải quyết các mối quan hệ giữa con người với nhau vô cùng phức tạp không chỉ giữa chủ thể với khách thể trong hệ thống mà còn có mối quan hệ tương tác với các hệ thống khác nhằm hướng đến mục tiêu chung của tổ chức mình. Như vậy, QL còn có thể hiểu là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể QL đến khách thể QL bao gồm nhiều giải pháp khác nhau thông qua cơ chế QL nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt tới mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường . Điều đó cũng xác lập rằng QL phải có một cấu trúc và vận động trong một môi trường xác định. Cấu trúc hệ thống QL bao gồm các yếu tố trong sơ đồ đơn giản sau: Sơ đồ 1: Cấu trúc hệ thống quản lý MÔI TRường quản lý Cơ chế quản lý Xã hội ngày càng phát triển, các loại hình lao động ngày càng phong phú, phức tạp, tinh vi thì hoạt động quản lý càng có vai trò quan trọng và quyết định để tổ chức đạt tới mục tiêu bằng con đường ngắn nhất nhưng đạt hiệu quả cao nhất. Trong nền văn minh công nghiệp hiện nay các nhà khoa học cho rằng có năm yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh phát triển của mỗi quốc gia là: vốn, lao động, kỹ thuật công nghệ, tài nguyên và chất xám quản lý, trong đó yếu tố chất xám quản lý được xếp hàng đầu. Điều này được biểu diễn trên sơ đồ sau: Sơ đồ 2: Mối liên hệ giữa các yếu tố trong việc phát triển quốc gia  Hiện nay QL thường được định nghĩa rõ hơn: QL là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các HĐ : kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Các HĐ kể trên cũng chính là các chức năng của QL. Nội dung cụ thể của từng chức năng có thể hiểu như sau: - Chức năng lập kế hoạch: Là chức năng hạt nhân của quá trình QL. Bởi vì kế hoạch là tập hợp những mục tiêu cơ bản được sắp xếp theo một trình tự nhất định cùng với một chương trình hành động cụ thể để đạt được mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch được xây dựng xuất phát từ đặc điểm tình hình cụ thể của tổ chức và những mục tiêu đã định sẵn mà tổ chức có thể hướng tới và đạt được, dưới sự tác động có định hướng của người QL. - Chức năng tổ chức: Là chức năng quan trọng của quá trình QL, đảm bảo tạo thành sức mạnh của tổ chức để thực hiện thành công kế hoạch đã đề ra. Tầm quan trọng này đã được Lê-Nin khẳng định:"Tổ chức là nhân tố sinh ra hệ toàn vẹn, biến một tập hợp các thành tố rời rạc thành một thể thống nhất, người ta gọi là hiệu ứng tổ chức". Bởi vì chức năng này việc tiến hành sắp xếp, bố trí một cách khoa học và phù hợp những nguồn lực của hệ thống thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng hỗ trợ nhau để đạt được mục tiêu của hệ thống một cách hiệu quả nhất. - Chức năng chỉ đ
Luận văn liên quan