Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá cần có sự quan tâm phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan trung ương tới địa phương và doanh nghiệp.
Cần nhanh chóng tổ chức các khoá đào tạo về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo các bộ ngành. Nội dung của các khoá đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những quy định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước và những vấn đề đang nổi lên tại Vòng đàm phán Doha của WTO liên quan tới vấn đề chống bán phá giá.
Các cơ quan nghiên cứu cần triển khâi các đề tài về chống bán phá giávà tư vấn cho nhà hoạch định chính sách về những ưu điểm cũng như nhược điểm của hệ thống chính sách hiện tại liên quan tới chống bán phá giá.
Đồng thời, các cơ quan nghiên cứu cũng phải đi tiên phong trong việc đưa ra các kiến nghị về áp dụng thuế chống bán phá giá trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là khi cơ quan chức năng đã quyết định điều tra. Những kiến nghị cần cụ thể như có nên áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu đang được điều tra hay không, lợi ích và thiệt hại đối với mỗi nhóm là bao nhiêu, thuế suất có đúng bằng mức biên độ phá giá không hay nên thấp hơn, những phản ứng quốc tế khi áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ như thế nào,.v.v.
Cần tổ chức, tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra,.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần biết rõ nguy cơ hàng xuất khẩu của họ cũng có bị nước nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất/ xuất khẩu một loại mặt hàng nên hợp tác với nhau dưới hình thức hiệp hội để thường xuyên trao đổi thông tin, tìm hiểu biện pháp đối phó khi mặt hàng mình xuất khẩu bị nước ngoài điều tra phá giá, đồng thời các doanh nghiệp cũng cần hợp tác chặt chẽ với Chính phủ để tiến hành những vận động cần thiết khi hàng xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ bị điều tra/ áp dụng thuế chống bán phá giá.
105 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các kiến nghị và giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA KINH TẾ CỦA THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
Lịch sử và nguồn gốc của bán phá giá
Khái niệm “bán phá giá” trong thương mại quốc tế có một lịch sử lâu đời. Trong những cuộc tranh luận tại Mỹ năm 1791, Alexander Halinton đã cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá tại các nước khác để nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường. Những trường hợp bán phá giá của các nhà sản xuất Anh tại thị trường mới mẻ ở nước Mỹ đã được báo cáo. Cuộc tranh luận của công chúng về vấn đề này, cùng nhiều nỗ lực của ngành lập pháp nhằm đối phó với nó cũng được ghi nhận trong gần hết thế kỷ 19. Đầu thế kỷ XX, Đạo luật chống bán phá giá cụ thể đầu tiên được ban hành ở Canada năm 1904. Sau đó Luật chống bán phá giá được ban hành tại Newzealand năm 1905, Australia năm 1906 và Nam phi năm 1914. Nước Mỹ có Đạo luật chống bán phá giá năm 1916 và nước Anh có vào năm 1921.
Khi xây dựng Hiệp định chung về Buôn bán và Thuế quan (GATT) năm 1947, một điều khoản đặc biệt về các trường hợp chống bán phá giá đã được soạn thảo. Điều VI của GATT cho phép các bên ký kết được sử dụng các sắc thuế chống bán phá giá để bù trừ mức phá giá của các hàng nhập khẩu, miễn là chứng minh được việc bán phá giá đang gây ra, hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất cho các ngành công nghiệp nội địa có cạnh tranh. Cho đến nay, đây vẫn là luật quốc tế cốt lõi về việc bán phá giá.
Tuy nhiên, một số quốc gia trong GATT nhận thấy rằng có một số nước đã áp dụng Luật chống phá giá để dựng lên những hàng rào thương mại mới, các thủ tục chống bán phá giá, những cách tính toán mức phá giá đã gây thiệt hại làm hạn chế và lệch lạc các dòng thương mại quốc tế. Tại vòng đàm phán Kennedy của GATT (1962 - 1967) các bên ký kết GATT đã thảo luận bộ luật chống bán phá giá, đặt ra một loạt các quy tắc về thủ tục và nguyên lý cho việc áp dụng những sắc thuế chống bán phá giá nhằm hạn chế các thủ tục và phương thức đánh thuế của những Chính phủ có thể gây tổn hại đến thương mại quốc tế.
Tại vòng đàm phán Tokyo 1973, các bên ký kết GATT đã xây dựng một Luật chống bán phá giá mới, có hiệu lực từ năm 1979 thay thế cho Luật chống bán phá giá năm 1967, có 26 nước thành viên ký kết có hiệu lực hơn mọi Hiệp định trước đó về bán phá giá. Đến vòng đàm phán Urugoay 1994 về bán phá giá, dựa trên Luật chống bán phá giá trước đó các thành viên xây dựng “ Hiệp định về việc thi hành điều VI của GATT năm 1994 ”điều chỉnh kỹ hơn các quy tắc chống bán phá giá và có hiệu lực hơn đối với mọi thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới ( WTO ) và là Hiệp định cưỡng bức thi hành.
Hiệp định nêu cụ thể ba loại nghĩa vụ khống chế việc áp dụng các sắc thuế:
Các quy tắc chi tiết về các sự kiện cấu thành việc “ bán phá giá”.
Các quy tắc chi tiết “ yêu cầu về thiệt hại ”
Các quy tắc chi tiết về những thủ tục theo đó các Chính phủ xác định và áp dụng các sắc thuế chống bán phá giá.
Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá:
Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “Bán phá giá” thường được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người bán hàng khác hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán cáo hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật là đơn giản, chỉ việc so sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên, sự việc lại không đơn giản chút nào khi một loạt câu hỏi được đặt ra cần giải quyết khi so sánh giá để đảm bảo sự chính xác và công bằng: giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn hay giá bán lẻ? Giá xuất khẩu là giá nào? ...
Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước.
Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
Tác động của việc bán giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình dưới đây. Trước khi có việc hàng của nước được bán vào thị truờng một nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2, trong khi đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2 - Q’2.
Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng bằng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng bằng diện tích hình thang ABCE.
Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc “bán phá giá” thường được coi là có tác động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần phải có sự phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá gía đều có hại hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau đây:
Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất;
Thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay “chi phí lề”.
Trường hợp thứ nhất: Giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng cao hơn chi phí sản xuất.
Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa ở trên.
Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do cạnh trạnh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống đối lại.
Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu sẽ gây tác động đến lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay không.
Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như tự vệ.
Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất
Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi phí, cần phân biệt các loại chi phí.
Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi phí bình quân (average cost) và chi phí lề (marginal cost).
Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm.
Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập vào một thị trường
Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm và các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thộc vào lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi hoặc chỉ để giảm thiệt hại trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng nội địa.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ.
Tại sao bán phá giá chiếm thị trường ở nước ngoài lại vẫn gia tăng được lợi nhuận?
Trong thực tế, có những lý do khiến một công ty bán phá giá hàng sản xuất ra thị trường nước ngoài mà vẫn thu được lợi nhuận. Giả dụ một công ty sản xuất một triệu chiếc radio một năm bằng một nhà máy duy nhất và chỉ làm ca ban ngày. Giả sử nhà máy đó định giá mặt hàng radio này trong thị trường nội địa là 20USD/chiếc và lãi được 4USD/chiếc. Ta giả dụ tiếp là những chi phí biến động của mặt hàng radio (nguyên vật liệu, lương công nhân...) vào khoảng 10USD/chiếc; Vậy chi phí cố định (nhà xưởng, trang thiết bị...) khoảng 6USD/chiếc.Nếu nhà máy bán hết một triệu chiếc radio mỗi năm với lãi 4USD/chiếc thì nó đã bù đắp xong mọi chi phí cố định và có thể bán thêm radio với bất cứ mức giá nào cao hơn chi phí biến động 10USD/chiếc để kiếm thêm tiền lãi.
Giả sử nhà máy có thể chạy thêm ca đêm và sản xuất một triệu chiếc radio nữa mỗi năm. Các chi phí cố định, theo giả định, đã được trang trải xong với một triệu chiếc radio đầu tiền. Nếu nó có thể xoay xở bán được một triệu chiếc radio thứ hai này mà không ảnh hưởng gì tới giá bán một triệu chiếc radio đầu tiên, vậy thì bất cứ mức giá nào cao hơn mức chi phí biến động 10 USD/ chiếc cũng làm tăng thêm lợi nhuận cho công ty. Thí dụ nó bán radio làm ca đêm với giá 14 USD, thì nó lãi thêm 4 triệu USD (ngoài số lãi 4 triệu USD từ một triệu chiếc radio đầu tiên làm ca ngày), tức là tăng gấp đôi lợi nhuận. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không được ảnh hưởng tới giá trị bán của một triệu radio đầu tiên làm ca ngày. Điều này dẫn đến việc phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn cho sản lượng của ca đêm. Thị trường mới này phải đảm bảo không dễ gì chuyển ngược hàng trở lại thị trường thứ nhất, nếu không thì giá bán của radio làm ca ban ngày sẽ bị cắt xuống tới mức thấp hơn giá thành.
Một phương cách để thực hiện việc trên là tính giá bán khác nhau ở những khu vực khác nhau, với điều kiện chi phí vận chuyển hàng theo chiều ngược lại phải đủ cao để ngăn không cho người mua ở thị trường giá rẻ đem bán lại ở thị trường giá đắt. Trong trường hợp xuất khẩu sản phẩm, các Chính phủ có thể dựng hàng rào thuế quan ngăn cản việc chở hàng hoá ngược về thị trường gốc. Như thế, nếu có một mức thuế quan 40% đánh lên radio nhập khẩu, thì sản lượng của ca đêm có thể bán sang nước ngoài sẽ chở radio ngược về thị trường giá gốc để làm giảm giá bán tại thị trường nội địa.
Có thể chứng minh những lập luận trên bằng trường hợp điển hình về bán phá giá đã xẩy ra trên thương trường quốc tế sau đây:
Từ những năm 1960, sáu công ty điện tử hàng đầu của Nhật Bản là HITACHI, MISUBISHI, MASUSHITA, SANYO, SHARP và TOSHIBA đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày 10/09/1964, họ đã thoả thuận thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thoả thuận này là trong nhiều năm trời, người tiêu dùng ở Nhật phải trả 700 USD cho một tivi màu, trong khi các công ty đó ở Mỹ chỉ với giá 400 USD cho một tivi mầu cùng loại. Việc bán phá giá tivi Nhật ở Mỹ làm cho các công ty Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh. Cho đến năm 1989, sáu hãng tivi lớn và nhiều hãng nhỏ của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị suy yếu mạnh. Chúng ta có thể lý giải quá trình bán phá giá, chiếm thị trường, gia tăng lợi nhuận nói trên bằng mô hình sau đây:
Hiệu ứng bán phá giá - chiếm thị trường - tăng lợi nhuận
Giả sử có 3 doanh nghiệp Nhật Bản 1,2,3 cạnh tranh trên thị trường tivi. Nhu cầu là đường NC, chi phí bình quân (C1, C2, C3) và công suất thiết kế của ba doanh nghiệp là như nhau (500.000 tivi/năm).
Nếu ba doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá với nhau, thị trường sẽ cân bằng ở điểm C, giá bán là Pc=450 USD và bằng chi phí bình quân thấp nhất của mỗi doanh nghiệp ở điểm D. Như vậy, cả ba doanh nghiệp đều chỉ hoà vốn.
Giả sử ba doanh nghiệp thoả thuận giảm 40% sản lượng từ qc=1,5 triệu còn qT= 0,9 triệu tivi. Lúc này, giá mà thị trường chấp nhận là PT= 700 USD, thị trường cân bằng ở điểm T. Do sản lượng giảm, chi phí bình quân tăng từ 450 USD ở điểm D, lên 500 USD ở điểm B. Tuy nhiên, do giá tăng rất mạnh, từ 450 USD lên 700 USD, nên mặc dù sản lượng giảm, chi phí tăng, các doanh nghiệp vẫn có lãi. Đối với doanh nghiệp 1, điểm bán lúc cạnh tranh là D, song khi thoả thuận là A, với qA= 300.000 tivi. Lợi nhuận của doanh nghiệp này là:
Lợi nhuận thực tế = 300.000 x (700 USD-500 USD) = 60 triệu USD
Như vậy lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên 60 triệu USD. Ở tình trạng thoả thuận bán ở trong nước như vậy, cả ba doanh nghiệp đều có lợi nhuận cao, song họ không bán thêm vào thị trường trong nước mà xuất khẩu, thì sẽ không làm giảm giá trị trường trong nước. Và nếu bán ra nước ngoài với giá thấp, thì có thể chiếm được thị trường mới. Vấn đề là bây giờ lợi nhuận của họ thế nào?
Giả sử doanh nghiệp sản xuất hết 100% năng lực, song xuất khẩu 40% sản phẩm. Tức là mỗi doanh nghiệp sản xuất 500.000 tivi/năm, xuất khẩu 200.000 tivi. Lúc này chi phí mỗi tivi là 450 USD ở điểm D. Giả sử ba doanh nghiệp quyết định bán phá giá ở nước ngoài, với giá PN= 400 USD < PC= 450 USD = chi phí bình quân. Như vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ lỗ xuất khẩu là:
Lỗ = 200.000 x (450 USD - 400 USD) = 10 triệu USD.
Tuy nhiên do tăng được 40% sản lượng, chi phí bình quân mỗi tivi lại giảm, từ 500 USD ở điểm B xuống còn 450 USD ở điểm D. Do vậy, mặc dù giá bán tivi trong nước không tăng, song lợi nhuận do bán trong nước lại tăng:
Lợi nhuận trong nước= 300 x (700 USD - 450 USD) = 75 triệu.
Như vậy lợi nhuận thực tế của mỗi doanh nghiệp khi vừa thoả thuận, vừa bán phá giá ở nước ngoài là:
Lợi nhuận= 75 triệu USD - 10 triệu USD = 65 triệu USD.
Mặc dù chịu lỗ ở nước ngoài, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp đã tăng từ 60 triệu USD (khi thoả thuận mà không xuất khẩu) lên đến 65 triệu USD (khi vừa có thoả thuận vừa có xuất khẩu). Còn nếu so sánh khi các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trong nước, lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên đến 65 triệu USD. Nếu chi phí sản xuất tivi ở Mỹ là 400USD, tức là thấp hơn của Nhật bản là 450USD, thì để có lãi, giá bán tivi của Mỹ phải trên 400USD. Nếu các doanh nghiệp Nhật bản xuất khẩu sang Mỹ với giá 400USD thì rõ rằng là các doanh nghiệp Mỹ không chịu đựng nổi. Và như đã nêu ở trên, sau 30 năm bán phá giá, Nhật bản đã đánh bại công nghiệp tivi của Mỹ, mặc dù chi phí sản xuất của các công ty Nhật bản có thể cao hơn các công ty Mỹ.
Mô hình nêu trên đã chứng minh một khả năng là: Một nước có trình độ công nghệ không cao hơn, có chi phí sản xuất cao hơn vẫn có thể xuất khẩu sang nước có chi phí sản xuất thấp hơn, với một giá thấp hơn chi phí của nước chủ nhà, vừa chiếm được thị trường mà vẫn gia tăng được lợi nhuận.
Bản chất kinh tế của chiến lược này là: Hạn chế tối đa nhập khẩu, thoả thuận trong nước về giá và xuất khẩu với giá tiêu diệt địch thủ:
Bằng cách hạn chế nhập khẩu và thoả thuận giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đẩy được giá trong nước lên cao làm tăng lợi nhuận (điều này làm thiệt hại người tiêu dùng trong nước).
Bằng cách xuất khẩu để sử dụng tối đa công suất, các doanh nghiệp lại giảm được chi phí, từ đó lại tăng thêm được lợi nhuận của phần sản phẩm bán trong nước. Chính phần lợi nhuận tăng thêm này là nguồn tài chính để bù lỗi việc bán phá giá ở nước ngoài.
Như vậy, trong một cơ chế thị trường có sự hỗ trợ của Nhà nước như trên (khuyến khích thoả thuận, bảo hộ mậu dịch và trợ cấp sản xuất xuất khẩu), chính người dân Nhật bản là người gánh chịu cái giá của sự mở rộng thị trường quốc tế của Nhật. Họ phải mua hàng với giá cao ở trong nước để tài trợ cho các doanh nghiệp bán phá giá ở nước ngoài, còn bản thân các chủ doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận cao dù phải bán phá giá để chiếm thị trường mới.
Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi phí lề. Trong các trường hợp này không thể xem xét nguyên nhân hành động của các hãng với mục tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác.
Những nguyên nhân của hành động bán phá giá
Mỗi một hành động bán phá giá đều nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể và có một số nguyên nhân dẫn đến hành động đó. Chúng ta có thể phân tích và tổng hợp thành một số nhóm nguyên nhân như sau:
Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước khác
Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Mỹ sẵn sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả của Mỹ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng 400USD/ tấn, nhưng các nhà xuất khẩu gạo Mỹ sẵn sàng mua với giá 500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra. Như vậy, Mỹ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài trợ giá xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều này mà mặc dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Mỹ lại thao túng giá gạo trên thị trường thế giới.
Do có các khoản tài trợ của Chính phủ
Chính phủ các nước phương Tây coi tài trợ là con đường ngắn nhất để đạt đuợc sự cân bằng kinh tế và đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách tối ưu. Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích sau:
Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu
Duy trì mức sử dụng nhất định đối với các yếu tố sản xuất như lao động và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được cấp cho người sản xuất cũng như cho người tiêu dùng, nhưng về mặt tác động kinh tế thì chúng đều như nhau vì đều đưa đến những hệ quả tương tự
Những hình thức tài trợ chủ yếu là: Trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi, sự tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như hỗ trợ xuất khẩu.
Trợ cấp: Đặc điểm cơ bản của trợ cấp là hướng vào giúp đỡ phát triển sản xuất. Ở các nước công nghiệp phát triển, các khoản trợ cấp chiếm một nửa toàn bộ khối lượng tài trợ. Tỷ trọng của các khoản trợ cấp cho từng ngành trong tổng số giúp đỡ của Chính phủ có sự khác nhau đáng kể giữa các nước. Như ở Anh, Ý, Hà Lan thì trợ cấp chiếm ph