Đấu tranh chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng và hết sức gian nan. Phòng ngừa và điều tra, xử lý tội phạm là những hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để phát hiện và xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, để làm được như vậy thì cần phải có chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để làm sáng tỏ vụ án. Vậy chứng cứ đó họ sẽ lấy từ nguồn nào và các nguồn đó là gì? Để giải đáp được câu hỏi này, em sẽ tìm hiểu về các nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự.
Chính vì lý do trên, em xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Các nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự”. Với vốn kiến thức còn hạn hẹp, nguồn tài liệu chưa được phong phú nên bài làm của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để bài làm của em lần sau được hoàn thiện hơn.
17 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3817 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Đấu tranh chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng và hết sức gian nan. Phòng ngừa và điều tra, xử lý tội phạm là những hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để phát hiện và xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, để làm được như vậy thì cần phải có chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để làm sáng tỏ vụ án. Vậy chứng cứ đó họ sẽ lấy từ nguồn nào và các nguồn đó là gì? Để giải đáp được câu hỏi này, em sẽ tìm hiểu về các nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự.
Chính vì lý do trên, em xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Các nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự”. Với vốn kiến thức còn hạn hẹp, nguồn tài liệu chưa được phong phú nên bài làm của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để bài làm của em lần sau được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨNG CỨ VÀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm chứng cứ
Cơ sở phương pháp luận của chứng cứ trong tố tụng hình sự là triết học Mác-Lênin, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng được sử dụng như là cơ sở phương pháp luận của chứng cứ. Định nghĩa chứng cứ là một trong những nội dung quan trọng của lý luận về chứng cứ. Do có vai trò rất quan trọng nên định nghĩa về chứng cứ được nhà làm luật xác định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Khoản 1 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”.
Đồng thời Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định rằng chứng cứ được xác định bằng vật chứng, lời khai của những người tham gia tố tụng, kết luận giám định, biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác (khoản 2 Điều 64).
Như vậy, chứng cứ là những thông tin có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án được chứa đựng trong các nguồn khác nhau. Vì vậy, cần phân biệt chứng cứ với nguồn chứng cứ. Chứng cứ là các thông tin được chứa đựng trong các nguồn chứng cứ; do vậy, các nguồn chứng cứ không phải là chứng cứ. Tuy nhiên, bất bỳ một chứng cứ nào cũng được lưu giữ trong nguồn mà pháp luật quy định để bảo đám cho các chứng cứ được đúng đắn khách quan. Trong lý luận cũng như thực tiễn tố tụng, không phải lúc nào chứng cứ và nguồn chứng cũng được phân biệt rõ ràng.
1.2. Các thuộc tính của chứng cứ
- Tính khách quan của chứng cứ: Tính khách quan là một trong những thuộc tính quan trọng của chứng cứ. Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, tính khách quan của chứng cứ được gọi là tính xác thực của chứng cứ (điều 66). Thực ra, chứng cứ trong lời khai của người tham gia tố tụng là những thông tin về tội phạm phản ánh khách quan trong ý thức người chứng kiến sự việc phạm tội đó. Vì vậy, về bản chất các thông tin khai báo là khách quan. Tuy nhiên do nhiều yếu tố tác động mà thông tin đó được tiếp nhận và cung cấp sai lệch. Các thông tin không chính xác, không khách quan thì không được gọi là chứng cứ.
- Tính liên quan của chứng cứ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự, thông thường Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thu thập được nhiều thông tin, tư liệu. tuy nhiên, không phải tất cả các thông tin tư liệu thu thập được đều là chứng cứ, mà chỉ các thông tin, tư liệu liên quan đến vụ án và dùng để giải quyết vụ án mới gọi là chứng cứ. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan của các thông tin, tư liệu với các tình tiết của vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này thể hiện ở hai mức độ khác nhau. Để xem các thông tin, tư liệu có phải là chứng cứ hay không, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải xác định được tính liên quan của thông tin, tư liệu đó ở cả hai mức độ:
+ Mối quan hệ của chứng cứ với đối tượng chứng minh.
+ Những thông tin, tư liệu không được dùng làm căn cứ trực tiếp để giải quyết thực chất vụ án, nhưng được dùng để xác định các tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
- Tính hợp pháp của chứng cứ: là sự phù hợp của nó với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, được thể hiện ở các mặt:
+ Chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của pháp luật
+ Tính hợp pháp đòi hỏi chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
1.3. Khái niệm nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ là nguồn cung cấp những vật, tài liệu quan trọng, mà từ đó có thể rút ra được những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Bởi vậy, nếu không có nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ để chứng minh, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, và có thể dẫn đến một hậu quả là các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra kết luận không chính xác và không đầy đủ đối với vụ án hình sự.
Hay nói cách khác, nguồn chứng cứ là những sự vật chứa đựng chứng cứ, tức chứa đựng các thông tin, tư liệu tồn tại trong thực tế khách quan, liên quan đến vụ án và được thu thập theo trình tự thủ tục pháp luật quy định. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguồn chứng cứ thường được gọi bằng thuật ngữ là phương tiện chứng minh.
2. NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Theo quy định tại khoản 2 Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác”.
2.1. Vật chứng
Vật chứng là nguồn chứng cứ có tình truyền thống. Từ khi có hoạt động tố tụng tố tụng hình sự thì vật chứng luôn luôn giữ vai trò quan trọng trong việc làm sang tỏ cự thật của vụ án. Tuy nhiên, vẫn có những quan niệm khác nhau về giá trị của nguồn chứng cứ này. Theo một số luật gia nước ngoài, việc phân chia chứng cứ được xác định thành hai loại là lời khai và vật chứng: “Lời khai là loại chứng cứ dưới dạng lời nói hoặc viết, thường là các câu trả lời khi hỏi cung, lời tường trình, lời thú tội...Vật chứng là loại chứng cứ tồn tại khách quan, có hình dáng, kích cỡ...Vật chứng tồn tại dưới nhiều dạng, vật chứng cứ thể lớn như một tòa nhà, bé nhỏ như một sợi vải, có thể chỉ thoảng qua như một mùi hương hay rõ ràng như quang cảnh của một vụ nổ” Barry A.J.Fisher - Arne Svensson - Otto Wendel: “Kỹ thuật khám nghiệm hiện trường và điều tra tội phạm”, Nxb. Công an nhân dân, H.1997, tr.19.
.
Theo Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.
Từ quy định trên, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của vật chứng là: “Thứ nhất, vật chứng là vật cụ thể, tồn tại dưới dạng vật chất, chúng tồn tại cả ở thể rắn, thể lỏng và thể khí. Sự thể hiện của vật chứng vô cùng đa dạng với đủ loại hình dạng, kích cỡ, màu sắc, trọng lượng... song một điều cơ bản là để những vật thể đó trở thành chứng cứ thì nó phải liên quan đến vụ án hình sự; Thứ hai, vật chứng chứa đựng và phản ánh những sự kiện thực tế liên quan đến vụ án, sự liên quan này có thể ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp nhưng nó phải nằm trong mối liên quan tổng thể giữa các nội dung, vấn đề của vụ án.” Một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ / Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh // Tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 12/2005, tr. 45.
Từ hai đặc trưng trên, ta có thể nhận thấy rằng, vật chứng là những vật mà dựa vào đó có thể xác định các sự kiện có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Những vật mang những thông tin xác định sự kiện đã xảy ra có liên quan đến vụ án hình sự. Việc khai thác các thông tin từ vật chứng khác với việc khai thác thông tin từ lời khai của những người tham gia tố tụng.
Có nhiều cách phân loại chứng cứ, căn cứ vào đặc điểm của việc xuất hiện và tham gia vào quá trình xảy ra vụ án hình sự, có thể phân chia vật chứng thành những loại như sau:
- Vật chứng là những vật dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội. Ví dụ: dao, sung, đạn, mìn, chó, cá sấu... hoặc là những phương tiện gia thông, thông tin được sử dụng vào việc phạm tội như xe máy, bộ đàm... những bất động sản dùng vào việc phạm tội như ngôi nhà, phòng trọ...;
- Vật chứng là những vật mang dấu vết của tội phạm. Ví dụ: quần áo dính máu trong vụ án giết người, cánh tủ mang dấu vân tay của người cậy phá...;
- Vật chứng là những vật được coi là đối tượng của tội phạm. Ví dụ: tài sản của Nhà nước, công dân...
- Vật chứng còn là những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội. Ví dụ: thông qua phạm tội mà có tiền rồi dùng tiền để mua sắm các đồ dùng khác, hoặc phát hiện thấy vật đã để lại dấu vết tại hiện trường (dấu giày, sợi vải trên áo...).
Ngoài ra, trên cơ sở giá trị chứng minh của vật chứng, người ta có thể phân chia vật chứng thành hai loại:
- Vật chứng có giá trị chứng minh tội phạm là những vật, tiền bạc mà từ đó cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thể tìm ra những tình tiết có giá trị chứng minh tội phạm.
- Vật chứng có giá trị chứng minh người phạm tội là những vật chứng mà từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, người tiến hình sự có thể tìm ra những tình tiết có giá trị chứng minh người phạm tội.
Thông thường, vật chứng được thu thập khi phát hiện ra tội phạm bằng hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng nhiều trường hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc thu thập chứng chứ có thể do bị can, bị cáo, người làm chứng... cung cấp. Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, nó ghi nhận chính xác những sự kiện thực tế của vụ án nên giá trị chứng minh của nó trong vụ án là rất cao. Vật chứng mang dấu vết vết tội phạm có vai trò giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định được hướng điều tra để giải quyết nhanh chonhs vụ án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự tồn tại của vật chứng chỉ mang tính chất tương đối, chỉ ở một mức độ, một thời gian nhất định. Do đó trong quá trình thu thập, bảo quản vật chứng, các cơ quan có thẩm quyền phải đảm bảo nguyên vẹn, không để mất mát, hư hỏng hay lẫn lộn vật chứng.
2.2. Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Lời khai trong vụ án hình sự có thể nói cũng là một nguồn chứng cứ rất quan trọng. Cơ quan điều tra sử dụng hoạt động nghiệp vụ của mình để lấy lời khai của các đối tượng nêu trên và Hội đồng xét xử thẩm định lại những lời khai một lần nữa tại phiên tòa. Sự hình thành lời khai là một quá trình phức tạp và nó bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan lân chủ quan khác nhau. “Nếu như vật chứng là một vật cụ thể được xác định, mang tính vật chất và nó phản ảnh khách quan về vụ án, do đó không thể có một vật nào khác thay thế cho nó, thì lời khai của các đối tượng nêu trên lại được hình thành từ tư duy, ý thức của con người” Một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ / Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh // Tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 12/2005, tr. 45.
. Ví dụ: Khi một người biết những tình tiết của vụ án và được các Cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến với tư cách là người làm chứng, thì họ nhận thức, thì họ nhận thức, tri giác về nó và trên cơ sở đó, lời khai của người này là sự diễn tả lại vụ án thông qua lăng kính chủ quan của họ, chính vì vậy sẽ thiếu đi sự khách quan.
2.2.1. Lời khai của người làm chứng
Là lời trình bày của người có hiểu biết về những tình tiết có liên quan đến vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Theo khoản 1 Điều 67 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra”.
Lời khai của người làm chứng có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ sự thật của vụ án. Khi một người được cơ quan tiến hành tố tụng xác định là người làm chứng thì họ pải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về tố tụng hình sự đối với họ. Không thể nhờ người khác đến cơ quan tiến hành tố tụng hình sự để làm chứng thay. Nếu một người đã tham gia tố tụng hình sự với vị trí là người làm chứng thì cơ quan tiến hành tố tụng không để họ giữ vai trò tố tụng khác như người phiên dịch, người giám định hoặc người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự.
2.2.2. Lời khai của người bị hại
Là lời trình bày của người bị người phạm tội trực tiếp xâm hại đến thể chất, tinh thần, tài sản.
Theo khoản 1 Điều 68 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Người bị hại trình bày về những tình tiết của vụ án, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và trả lời những câu hỏi đặt ra”.
Lời khai của người bị hại có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Bản thân họ là người bị thiệt hại nên họ ming muốn nhanh chóng làm rõ vụ án, họ có thể nhớ được những tình tiết có ý nghĩa cho việc giải quyết nhanh vụ án. Tuy vậy, họ cũng có những đặc điểm tâm lý không phải luôn luôn có lợi cho việc điều tra như họ có thể khai tăng thiệt hại so với thực tế.
2.2.3. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
Lời khai của nguyên đơn dân sự là lời trình bày của cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị thiệt hại về vật chất và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại dân sự.
Lời khai của bị đơn dân sự là lời trình bày của cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Theo khoản 1 Điều 69 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày về những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra”.
Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có ý nghĩa cho việc xác định thiệt hại vật chất do tội phạm gây ra.
2.2.4. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Là lời trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến các quyết định của Tòa án.
Theo khoản 1 Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày về những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ”.
Họ là những người không trực tiếp liên quan đến việc phạm tội, nhưng có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án, nên phạm vi trình bày của họ chỉ hạn chế về các tình tiết liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của họ.
2.2.5. Lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ
Người bị bắt, bị tạm giữ là người bị nghi thực hiện tội phạm, chứ chưa chính thức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Lời khai của người bị bắt là lời trình bày của người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã về những tình tiết có liên quan đến việc họ bị nghi là đã thực hiện tội phạm.
Lời khai của người bị tam giữ lời trình bày của người đang có quyết định tạm giữ hình sự về những tình tiết có liên quan đến việc họ bị nghi là đã thực hiện tội phạm.
Theo Điều 71 Bộ luật tố tụng hình sự: “Người bị bắt, bị tạm giữ trình bày về những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm”.
Thông thường, người bị bắt, bị tạm giữ chỉ khai báo về các tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm. Họ có nguy cơ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên họ thường khai báo những tình tiết theo hướng có lợi cho mình, đôi khi không khách quan và đúng sự thật. Tuy nhiên họ có quyền từ chối việc khai báo bởi khai báo là quyền chứ không phải nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, và pháp luật không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi từ chối khai báo và cố tình khai báo gian dối của họ.
2.2.6. Lời khai của bị can, bị cáo
Bị can, bị cáo là người chính thức bị truy cứu trách nhiệm hình sự bằng quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa ra xét xử
Lời khai của bị can, bị cáo là lời trình bày của người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tình tiết của vụ án. Họ là người hiểu rõ nhất về những tình tiết của vụ án. Lời khai của họ có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật.
Theo khoản 1 Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự: “Bị can, bị cáo trình bày về những tình tiết của vụ án”.
Đây là nguồn chứng cứ quan trọng nhất trong loại nguồn chứng cứ này vì họ có thể nhận tội, khai ra những người đồng phạm khác hoặc đưa ra những chứng cứ chứng minh họ không phạm tội... mà từ đó các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể kết hợp với nguồn chứng cứ khác để làm rõ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án.
Bị can, bị cáo là những người hiểu rõ nhất về những tình tiết của vụ án. Lời khai của họ có ý nghĩa quan trong trong việc làm sáng tỏ sự thật. Tuy nhiên, họ không có nghĩa vụ phải khai báo như người làm chứng mà họ có quyền bào chữa. Nếu bị can, bị cáo khai báo thành khẩn thì sẽ được khoan hồng.
2.3. Kết luận giám định
Kết luận giám định là bản nhận xét của người giám định về vấn đề có liên quan đến việc làm rõ vụ án hình sự được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu, dựa trên cơ sở quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội.
Nội dung của bản kết luận giám định có thể là cơ sở để xác định có tội phạm xảy ra không, ai là người phạm tội... Việc giám định có thể do một người hoặc một nhóm người tiến hành. Vì vậy, mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định việc giám định trước khi khởi tố vụ án hình sự, song thực tế trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, hoạt động giám định có thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự.
Phạm vi kết luận giám định được giới hạn trong quyết định trưng cầu giám định của cơ quan tiến hành tố tụng. Kết luận giám định là loại nguồn chứng cứ quan trọng vì các chứng cứ này được dựa trên những cơ sở của các thành tựu khoa học. Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn đấu tranh chống tội phạm thì các trường hợp trưng cầu giám định để phục vụ việc giải quyết vụ án hình sự được chia thành hai trường hợp:
- Trường hợp thứ nhất, theo quy định tại khoản 3 Điều 155; khoản 2 Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự thì bắt buộc phải trưng cầu giám định khi xác định: nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động; tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng, người bị hại trong trường hợp có nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án; tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; khi vật chứng là vàng, bạc, kim khí, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, chất ma túy, tiền giả...
- Trường hợp thứ hai, theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định khi xét thấy cần thiết: do yêu cầu của vụ án; vấn đề thuộc chuyên môn khoa học mà người tiến hành tố tụng không thể tự mình kết luận được (như: hàng giả, văn hóa phẩm đồi trụy...).
Kết thúc việc giám định, người giám định phải có bản kết luận giám định, kết luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản, nếu việc giám định do một nhóm người giám định tiến hành thì tất cả các thành viên đều ký vào bản kết luận chung. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung (theo khoản 1 Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003).