Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thử thách trong việc thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước để đưa đất nước phát triển đi lên mà đặc biệt quan trọng trong đó là các nguồn vốn. Ý thức được điều trên trong những năm vừa qua nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc thu hút vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhằm đạt được và duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững.
Có thể nói vần đề đầu tư, kích cầu đầu tư nhất là kích cầu đầu tư nước ngoài đang là một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Chính vì vậy nên nhóm chúng tôi chọn đề tài về chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư nhằm để xem xét bản chất của các hoạt động kích cầu đầu tư và đánh giá hoạt động đó thông qua những thành tựu và hạn chế của công tác này ở Việt Nam trong những năm gần đây.
18 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2465 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Các nhân tố tác động đến chi tiêu đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI.
Các nhân tố tác động đến chi tiêu đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư tại Việt Nam?
PHẦN MỞ ĐẦU:
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đứng trước nhiều thử thách trong việc thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước để đưa đất nước phát triển đi lên mà đặc biệt quan trọng trong đó là các nguồn vốn. Ý thức được điều trên trong những năm vừa qua nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc thu hút vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhằm đạt được và duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững.
Có thể nói vần đề đầu tư, kích cầu đầu tư nhất là kích cầu đầu tư nước ngoài đang là một trong những vấn đề rất được quan tâm hiện nay. Chính vì vậy nên nhóm chúng tôi chọn đề tài về chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư nhằm để xem xét bản chất của các hoạt động kích cầu đầu tư và đánh giá hoạt động đó thông qua những thành tựu và hạn chế của công tác này ở Việt Nam trong những năm gần đây. Thực hiện đề tài này nhóm chúng tôi hy vọng sẽ có thêm hiểu biết về bản chất của hoạt động đầu tư, và cũng mong mang đến người đọc những cái nhìn chung nhất về hoạt động kích cầu đầu tư và hiện trạng của hoạt động này ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù nhóm đã cố gắng tham khảo tài liệu và được sự giúp đỡ của các thầy cô song không tránh khỏi những sai sót trong các vấn đề nêu ra. Vì vậy nhóm chúng tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để cho đề án này mang tính khoa học cao hơn.
B: PHẦN NỘI DUNG:
Chương 1: Lý thuyết về chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư:
I. Lý thuyết về chi tiêu đầu tư:
1. Khái niệm:
Chi tiêu đầu tư thực chất là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư của Nhà nước, các doanh nghiệp và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm từ các khu vực của nền kinh tế, trong đó đầu tư khôi phục tức là đầu tư bù đắp giá trị hao mòn được lấy từ quỹ khấu hao còn đầu tư thuần tuý được lấy từ các khoản tiết kiệm của khu vực nhà nước, các hộ gia đình và các doanh nghiệp.
2. Những quan điểm về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư .
Trước khi ra một quyết định đầu tư, bất kì một nhà đầu tư nào cũng phải xem xét kĩ càng các nhân tố sẽ ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của họ. Qua đó họ sẽ cân nhắc và tính toán xem có nên hay không nên đầu tư vào một dự án nào đó. Ở đây chúng ta sẽ làm rõ một số quan điểm về những nhân tố tác động đến chi tiêu đầu tư của một số nhà kinh tế học.
Nhân tố đầu tiên mà chúng tôi muốn nhắc tới là kỳ vọng. Kỳ vọng là một nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu đầu tư.
Theo Samuelson thì đầu tư như một canh bạc với sự đánh cược rằng thu nhập do đầu tư đem lại sẽ cao hơn chi phí cho hoạt động đầu tư đó. Nếu các doanh nghiệp dự đoán rằng tình hình kinh tế trong tương lai ở lãnh thổ nào đó sẽ xấu đi thì họ sẽ ngần ngại khi quyết định đầu tư vào đây. Ngược lại khi các doanh nghiệp tin rằng công cuộc kinh doanh sẽ phục hồi nhanh chóng ở đó thì họ sẽ có kế hoạch mở rộng nhà xưởng, đầu tư thêm vốn mở rộng sản xuất.
Vì vậy, các dự án đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào dự đoán và kỳ vọng về các sự kiện tương lai. Nhưng người ta lại nói dự đoán là điều may rủi, nhất là dự đoán về tương lai. Các doanh nghiệp thường đổ nhiều công sức vào phân tích đầu tư và cố gắng giảm tới mức thấp nhất những sự bấp bênh trong đầu tư của mình.
Cũng là quan điểm về sự ảnh hưởng của yếu tố kỳ vọng tới chi tiêu đầu tư song Keynes cho rằng có hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp là: Lợi nhuận và lãi suất. Theo ông nếu lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn lãi suất tiền vay thì nhà đầu tư sẽ quyết định đầu tư và ngược lại khi mà lợi nhuận kỳ vọng nhỏ hơn lãi suất tiền vay thì nhà đầu tư sẽ không quyết định đầu tư nữa. Cũng theo Keynes thì nhà đầu tư ra quyết định căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận biên của vốn (tỷ lệ giữa mức gia tăng lợi nhuận và mức gia tăng của vốn đầu tư). Tuy nhiên tỷ suất lợi nhuân biên giảm dần khi tăng qui mô vốn đầu tư vậy các doanh nghiệp chỉ đầu tư đến một qui mô nhất định nào đó sao cho điều kiện trên được thoả mãn.
Trong những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động chi tiêu đầu tư thì nhân tố chi phí vốn có một ảnh hưởng rất lớn. Theo Dale Jorgenson thì một đơn vị vốn sẽ không được mua sắm thêm trừ khi sản phẩm biên của vốn (MPK) ít nhất là bằng chi phí sử dụng vốn (u) : MPK u. Yêu cầu của sản xuất đòi hỏi luôn phải tăng thêm máy móc, thiết bị, phương tiện… nhằm mở rộng năng lực sản xuất, cho phép hạ thấp chi phí sản xuất. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, cần phải có sự so sánh giữa lợi ích mang lại do sử dụng các máy móc phương tiện mới, thể hiện qua phần lợi nhuận tăng thêm, với khoản chi phí cho đầu tư để có được thiết bị đó. Vấn đề là ở chỗ, lợi ích chỉ thực sự có được trong tương lai, trong khi vốn đầu tư lại phải bỏ ra ngay từ đầu. Các nhà đầu tư thường tài trợ cho các khoản đầu tư đó bằng cách vay vốn. Do đó, những nhà đầu tư phải trả lời được câu hỏi: liệu lợi nhuận do đầu tư đem lại có cao hay hơn mức lãi suất phải trả khi chủ đầu tư vay vốn đầu tư hay không? Chủ đầu tư chỉ nên đầu tư khi và chỉ khi lợi nhuận thực sự dự báo trong tương lai cao hơn hoặc ít nhất là bằng so với mức lãi suất tiền vay phải trả.
Vào cùng một thời điểm, có thể có rất nhiều dự án đầu tư. Số lượng dự án đầu tư phụ thuộc vào mức lãi suất tiền vay, khi mức lãi suất tiền vay càng cao, thì số dự án thoả mãn được yêu cầu trên càng ít và ngược lại khi mức lãi suất tiền vay thấp, sẽ có nhiều dự án đầu tư hơn làm khối lượng cầu vốn đầu tư tăng. Do đó theo Dale Jorgenson thì để có thể tăng chi tiêu đầu tư, và khuyến khích hoạt động đầu tư thì sẽ cần rất nhiều nhân tố song mức lãi suất tiền vay thấp là một trong những nhân tố đó.
Đồ thị dưới đây chỉ rõ đường cầu đầu tư Dı biểu hiện mối quan hệ phụ thuộc giữa lãi suất tiền vay và nhu cầu vốn đầu tư ở mỗi điểm lãi suất cụ thể. Nếu mức lãi suất tăng từ i’ lên i sẽ làm giảm số dự án đầu tư, nói cách khác nhu cầu vốn đầu tư giảm từ I’ xuống I.
/
Tại mỗi mức giá tài sản đầu tư và mức lợi nhuận kỳ vọng xác định, thì sự thay đổi của mức tiền vay sẽ làm ảnh hưởng đến nhu cầu đầu tư. Lãi suất tiền vay là biến nội sinh của hàm cầu đầu tư.
Một trong những điều không kém phần quan trọng mà một dự án đầu tư cần xem xét đó là lợi ích về tiết kiệm thuế trong việc huy động vốn vay. So sánh giữa hai hình thức huy động vốn từ phát hành cổ phiếu và vay nợ thì nghĩa vụ đóng thuế từ số lợi nhuận đạt được qua việc huy động vốn vay luôn thấp hơn nhiều so với việc huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Bởi lẽ ở hầu hết các nước có qui định lãi vay được tính trừ vào thu nhập chịu thuế trong khi đó cổ tức lại không. Điều đó cũng có nghĩa, Chính phủ coi như đã “trợ cấp” cho các doanh nghiệp một khoản tiền dưới hình thức giảm thuế để khuyến khích các công ty sử dụng các khoản vay nợ để tài trợ cho các dự án đầu tư. Thực tế cho thấy, doanh nghiệp vẫn có thể đầu tư vào một dự án có NPV âm để được vay, bởi lẽ mức chắn thuế được tạo ra do giá trị khoản vay đã làm giảm lợi nhuận ròng trong giá trị đầu tư mới. Đây là khía cạnh ảnh hưởng tích cực về phía doanh gnhiệp. Và như vậy giới hạn khả năng nợ tạo ra các quyết định tài chính và đầu tư phụ thuộc lẫn nhau. Đầu tư đúng hướng, hiệu quả, doanh nghiệp cần cân nhắc trên nhiều yếu tố trong đó có yếu tố lãi suất tiền vay – một yếu tố quyết định phần nhiều đến sự tồn bại của dự án.
Các nhân tố ngoài lãi suất tiền vay cũng có ảnh hưởng tới chi tiêu đầu tư. Đầu tiên phải kể đến là tốc độ gia tăng sản lượng. Chúng ta biết đầu tư là một yếu tố sản xuất là nhân tố nguyên nhân ảnh hưởng đến qui mô sản lượng của dự án. Từ nửa sau của những năm 30, các kiểm tra thực nghiệm cho thấy đầu tư không hoàn toàn phụ thuộc vào lãi suất và một lý thuyết mới về đầu tư của Keynes ra đời là “thuyết gia tốc đầu tư”. Theo ông đầu tư ròng là hàm của sự thay đổi sản lượng. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng > 0. Sản lượng càng tăng thì đầu tư ròng sẽ tăng theo hay nói cách khác: mỗi sự thay đổi của sản lượng đều dẫn đến sự biến động liên tục của vốn đầu tư và sản lượng thay đổi ở tốc độ thấp còn vốn đầu tư thay đổi cùng hướng nhưng ở tốc độ thấp hơn nhiều lần.
Theo Samuelson đầu tư đem lại nhiều doanh thu cho hãng hơn nếu nó cho phép hãng bán được nhiều hàng hơn. Điều đó cho thấy tổng sản lượng là một nhân tố cực kỳ quan trọng quyết định tới đầu tư. Khi nhà xưởng phải bỏ không rõ ràng chẳng một nhà đầu tư nào muốn xây dựng thêm nhà xưởng cả, và đầu tư sẽ thấp. Tổng quát hơn, đầu tư phụ thuộc vào doanh thu do hoạt động kinh tế chung tạo ra. Bằng một số nghiên cứu ông kết luận rằng: khi sản kượng tăng 5% so với sản lượng tiềm năng thì tương ứng với tỷ lệ đầu tư trong GDP tăng 1-2 %.
Chu kỳ kinh doanh cũng là một nhân tố tác động đên hành vi chi tiêu đầu tư. Một sự đầu tư đem lại thu nhập, nếu đầu tư dẫn đến tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn hoặc tạo ra chi phí sản xuất thấp hơn. Do đó yếu tố rất quan trọng quyết định đầu tư là mức sản lượng của đầu ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, mức sản lượng này chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh. Như vậy vào mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức nhu cầu đầu tư khác nhau.
Khi chu kì kinh doanh ở thời kì đi lên, qui mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư gia tăng, thể hiện ở việc dịch chuyển đường cầu đầu tư sang phải. Trái lại, khi chu kỳ kinh doanh đi xuống, quy mô của nền kinh tế bị thu hẹp lại, kéo dịch đường cầu đầu tư sang trái như vậy với cùng một lãi suất tiền vay lúc này nhu cầu đầu tư sẽ giảm hơn so với trường hợp trước.
Thuế cũng là một công cụ của Nhà nước có thể tác động vào hành vi chi tiêu đầu tư, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. Nếu chính phủ đánh thuế cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư và làm cho thu nhập của các doanh nghiệp giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngược lại với một chính sách giảm thuế sẽ có tác dụng kích thích các nhà đầu tư . Song cần phải cân đối sao cho hợp lý để có thê thu hút đầu tư song không bị thâm hụt Ngân sách Nhà nước do thuế là nguồn thu chính của Ngân sách.
Đầu tư của Nhà nước là hết sức quan trọng trong việc gia tăng mức chi tiêu đầu tư. Những cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động sản suất kinh doanh sẽ tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh tế của dự án. Một cơ sở hạ tầng tốt sẽ đảm bảo cho lợi nhuận của nhà đầu tư hơn khi họ đầu tư vào một nơi mà cơ sở hạ tầng yếu kém. Điều này được hiểu là vì tại những nơi có cơ sở hạ tầng yếu kém các doanh nghiệp sẽ phải tăng chi phí để thực hiện hoạt động sản suất kinh doanh do vậy lợi nhuận ròng của họ sẽ giảm.
II. Lý thuyết về kích cầu đầu tư :
1. Khái niệm .
Cầu đầu tư là dự định (kế hoạch) đầu tư của chủ đầu tư nhằm thay thế và tăng thêm giá trị tài sản cố định hay dự trữ tài sản lưu động mà giá trị của những tài sản này là để đáp ứng yêu cầu của sản xuất hoặc tiêu thụ trong tương lai.
Cầu đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào nhịp độ tăng nhu cầu sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Nhìn chung không có mối liên hệ chặt chẽ giữa khối lượng sản suất hiện thời với sự biến đổi nhu cầu và sản xuất sản phẩm được dự báo cho tương lai. Nhiều khi khối lượng sản xuất lớn thì làm tăng nhu cầu sản phẩm, và ngược lại cũng có khi khối lượng sản xuất lớn lại làm giảm nhu cầu sản phẩm của doanh nghiệp.
Kích cầu đầu tư được hiểu là những hoạt động tác động trực tiếp hay gián tiếp lên nhu cầu đầu tư nhằm kích thích việc thực hiện các dự án đầu tư. Các hoạt động này trước hết để tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện các hoạt động đầu tư.
2. Nội dung kích cầu đầu tư .
Đầu tư là một khoản lớn và rất dễ thay đổi trong chi tiêu, vì vậy những thay đổi trong chi tiêu đầu tư sẽ làm ảnh hưởng nhiều đến tổng cầu. Đến lượt mình tổng cầu lại tác động đến sản lượng và việc làm. Hơn nữa chi tiêu đầu tư tạo ra tích luỹ vốn, quỹ nhà xưởng máy móc thiết bị tăng lên thúc đẩy tiềm năng của quốc gia và tạo ra được tăng trưởng trong dài hạn. Đó chính là điểm quan trọng cho ta hiểu vì sao hoạt động đầu tư lại có vai trò quyết định lớn đến nền kinh tế, và hoạt động kích cầu đầu tư lại có vai trò hết sức quan trọng để tạo ra sự phát triển bền vững cho mọi nền kinh tế.
Theo khái niệm chung về kích cầu đầu tư thì mục tiêu của hoạt động kích cầu đầu tư là gia tăng số dự án đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay địa phương. Từ mục đích này chúng ta có thể thấy được những công việc chính của hoạt động kích cầu đầu tư trước tiên là phải làm sao để huy động được vốn, sau đó là phải tạo cho được những điều kiện thuận lợi và quản lí các dự án đầu tư cho có hiệu quả.
Để thực hiện được mục tiêu trên, công tác kích cầu phải sử dụng nhiều biện pháp chính sách để tạo ra những điều kiện huy động một cách hiệu quả nhất các nguồn vốn đầu tư:
+ Các phương pháp tạo lập nguồn vốn đầu tư. Đầu tiên là phải thực hiện khuyến khích huy động vốn từ tiết kiệm tư nhân. Kinh tế cổ điển Anh thế kỷ XIX cho rằng sự can thiệp của chính phủ vào quyết định đầu tư và tiết kiệm tư nhân có thể làm giảm tính hiệu quả của nền kinh tế. Theo quan điểm này cho rằng: Vốn đầu tư có thể có các nguồn hình thành sau: Tiết kiệm của các hộ gia đình đã trở thành một nguồn lớn hình thành nên cung vốn đầu tư. Ngoài ra, khoản thu nhập giữ lại của một đơn vị kinh doanh cũng là một nguồn quan trọng hình thành nên vốn đầu tư. Tiết kiệm của các đơn vị kinh doanh bao gồm tiết kiệm từ lợi nhuận cũng như từ các nguồn phi lợi nhuận. Các nguồn này là các khoản tài trợ chính cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa rằng : lãi suất sẽ làm cân bằng cung tiết kiệm với cầu đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên theo Keynes thì lãi suất phải được xác định theo cung và cầu tiền tệ. Do vậy chương trình tiết kiệm của các hộ gia đình và chương trình đầu tư của các doanh nghiệp thường không trùng hợp với nhau. Tiết kiệm phụ thuộc vào thu nhập, còn đầu tư là hàm số của tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng. Ở các nước đang phát triển do ít có thiên hướng chấp nhận các quyết định tiết kiệm của các hộ gia đình. Để thu hút được vốn cho hoạt động đầu tư cần có một lãi suất huy động vốn cao, và để kích thích đầu tư thì lãi suất cho các nhà đầu tư vay để tài trợ cho các dự án lại cần thấp. Nếu để thị trường tự điều tiết thì sẽ không xảy ra điều này và hoạt động kích cầu đầu tư không hiệu quả. Lúc này chính phủ có vai trò tích cực trong việc tăng tỷ lệ hình thành vốn bằng một tỷ lệ tiết kiệm cao.
Hoàn thiện các tổ chức trung gian tài chính, điển hình là các ngân hàng thương mại, các quĩ tiết kiệm, thị trường chứng khoán…Chúng ta biết lượng vốn nằm khê đọng trong dân rất nhiều song lại rải rác và khó tập trung. Mặt khác những nguồn vốn này sẽ không thể trực tiếp đến tay các nhà đầu tư được bởi không phải doang nghiệp nào cũng có khả năng huy động vốn bằng cổ phiếu và trái phiếu. Do vậy các trung gian tài chính này sẽ là nơi thu hút và phân bổ nguồn vốn đầu tư cho các dự án. Đây là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng với các hoạt động đầu tư vì nó có tác dụng huy động vốn và phân bổ để nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
+ Tạo lập và duy trì một năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế. Đặt trong bối cảnh của tổng quát và dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như yếu tố tạo ra sức hấp dẫn cho các luồng vốn trong nước và nước ngoài. Điều này tuân theo logic là khi mà các dự án đầu tư được thực hiện có hiệu quả thì nó sẽ lại càng thu hút nhiều vốn đầu tư hơn. Cơ chế tác động của điều này chính là tác động vào kỳ vọng của các nhà đầu tư mà chúng ta đã nói ở trên. Có điều này bởi vì trước hết với năng lực tăng trưởng nhanh, thì trong bản thân nội bộ nước đó cũng sẽ có được một mức tích luỹ lớn hơn và do đó qui mô của các nguồn vốn trong nước sẽ tăng lên. Mặt khác, triển vọng tăng trưởng cao như vậy sẽ là một tín hiệu tốt đối với các hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài.
+ Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là diều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Về nguyên tắc, để thu hút được các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lời cao.
Khi đầu tư trước tiên các nhà đầu tư muốn sao cho đồng vốn của mình được an toàn. Như vậy với một nước có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì sẽ tạo ra được một lòng tin bước đầu với các nhà đầu tư. Với những nhà đầu tư nước ngoài còn có những yêu cầu về năng lực trả nợ tối thiểu của những nước nhận đầu tư. Để ổn định kinh tế vĩ mô phải đảm bảo các điều kiện cụ thể sau:
Ổn định giá trị tiền tệ. Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn cho đầu tư. Ổn định giá trị tiền tệ ở đây bao gồm kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của giảm phát nếu có Để có được điều này, cần phải rạo ra sự vận động một cách đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, cân đối thu chi Ngân sách Nhà nước.
Điều tiết lãi suất, về lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng cao. Bên cạnh đó, nếu mức lãi suất trên thị trường nội địa cao tương đối so với lãi suất quốc tế thì lại tạo ra sự hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. Hơn nữa nó còn giúp các chính phủ bảo vệ được nguồn vốn của mình. Song phải chú ý đến mặt thứ hai của tăng lãi suất tức là khi lãi suất tăng thì đồng thời chi phí của hoạt động đầu tư cũng tăng lên do đó phải cẩn thận cân nhắc kỹ khi sử dụng công cụ này.
Về lâu dài cần hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước trong mối quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực thu hút các nguồn đầu tư. Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai thác nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế.
+ Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả. Bên cạnh hai điều kiện trên thì để có thể huy động được có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho phát triển cần phải có các chính sách và giải pháp hợp lý và đồng bộ. Các chính sách này phải được thực hiện trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc sau: Các chính sách huy động vốn phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ. Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Cần quán triệt nguyên tắc vốn trong nước là quyết định còn vốn nước ngoài là quan trọng. Cần phải đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn. Các chính sách vay vốn phải được tiến hànhđồng bộn cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện, đảm bảo sự bình đẳng giữa các nguồn vốn.
Chương 2: Thực trạng kích cầu đầu tư ở Việt Nam .
I.Đánh giá tình hình chi tiêu đầu tư của Việt Nam .
Trên góc độ nền kinh tế, vốn đầu tư phát triển có thể huy động từ hai nguồn: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó mỗi nguồn lại được chia thành các nguồn nhỏ hơn. Nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn Nhà nước, nguồn vốn từ khu vực tư nhân và nguồn vốn khác. Vốn đầu tư nước ngoài lại bao gồm vốn FDI, vốn tài trợ phát triển chính thức, vốn vay thương mại, vốn ngoại tệ thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã có những thành tựu rất đáng hy vọng trong hoạt động huy động vốn đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội liên tục tăng trưởng mạnh về qui mô. Đây chính là yếu tố quyết định nhất tới những thành tựu về kinh tế của nước ta trong giai đoạn vừa qua. Điều này được thể hiện qua số liệu thông kê vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1996-2005:
Đơn vị : Nghìn tỷ đồng,%
Năm
Tổng vốn đầu tư
Lượng tăng tuyệt đối
Tốc độ tăng vốn tuyệt đối (%)
Vốn đầu tư/GDP
1996
88.8
11.48
10.2
32.1
1997
105.9
17.1
19.2
34.5
1998
108.8
2.9
2.7
32.4
1999
119.4
10.6
9.8
32.8
2000
132.2
12.8
10.7
32.9
2001
160.4
28.2
10.4
34.0