Hãng nước ngọt Pepsi được thành lập gần một thế kỷ trước, lượng tiêu thụ và danh tiếng đều kém xa Coca Cola. Nhưng đến những năm đầu của thập niên 90, Pepsi đã vinh dự được xếp hàng thứ bảy trong số 10 tập đoàn lớn nhất nước Mỹ, trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất của Coca Cola.
Ngay khi Việt Nam mở cửa thị trường, ngày 24/12/1991,Pepsi đã ký hợp đồng “xâm nhập”. Lập tức, với thế lực hùng hậu của mình, Pepsi đã thống lĩnh thị trường Việt từ Nam ra Bắc.
Với giá quá rẻ, cộng thêm uy tín, chất lượng “hàng đầu thế giới”, Pepsi “đè bẹp” các đối thủ Việt Nam trong vòng không quá. một tháng. Hãng nước ngọt Tribeco cũng đành “ngậm ngùi” chấm dứt thời “hoàng kim”ngắn ngủi để chuyển sang sản xuất sữa đậu nành để tránh phải đối đầu với một thế lực hùng mạnh như là Pepsi.
43 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2771 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương I: Tổng quan nghiên cứu về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Hãng nước ngọt Pepsi được thành lập gần một thế kỷ trước, lượng tiêu thụ và danh tiếng đều kém xa Coca Cola. Nhưng đến những năm đầu của thập niên 90, Pepsi đã vinh dự được xếp hàng thứ bảy trong số 10 tập đoàn lớn nhất nước Mỹ, trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất của Coca Cola.
Ngay khi Việt Nam mở cửa thị trường, ngày 24/12/1991,Pepsi đã ký hợp đồng “xâm nhập”. Lập tức, với thế lực hùng hậu của mình, Pepsi đã thống lĩnh thị trường Việt từ Nam ra Bắc.
Với giá quá rẻ, cộng thêm uy tín, chất lượng “hàng đầu thế giới”, Pepsi “đè bẹp” các đối thủ Việt Nam trong vòng không quá... một tháng. Hãng nước ngọt Tribeco cũng đành “ngậm ngùi” chấm dứt thời “hoàng kim”ngắn ngủi để chuyển sang sản xuất sữa đậu nành để tránh phải đối đầu với một thế lực hùng mạnh như là Pepsi.
Sau đó, Pepsi thiết lập hệ thống phân phối trên toàn Việt Nam. Ngoài các đại lý và tổng đại lý, Pepsi còn “tiếp cận” hầu hết các quán cà phê (nơi quảng bá và tiêu thụ một lượng rất lớn nước ngọt của Pepsi).
Du khách tới Việt Nam qua cửa ngõ Tân Sơn Nhất, chỉ cần ra khỏi phi trường đã thấy ngay một tấm pa-nô cực lớn quảng cáo cho hãng Pepsi. Coca-Cola được giới thiệu lần đầu tiên tại Việt Nam từ năm 1960 và đã trở lại từ tháng 2 năm 1994, sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại. Ngay khi quay trở lại Coca-Cola đã phải gặp cản trở lớn từ đối thủ Pepsi.
Hai võ sĩ Pepsi và Coca-Cola so tài
Vừa xâm nhập vào thị trường Việt Nam, Coca-cola đã vội ra quyết định đại hạ giá để “thị uy” và giành giật thị phần. Nhưng tình hình lúc đó đã khác với thời điểm Pepsi vào Việt Nam.Khi Pepsi vào Việt Nam chỉ có những “đơn vị” sản xuất nước ngọt nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, vốn liếng “ba cọc ba đồng” , nên nhanh chóng bị Pepsi đánh bại .Ngay cả chiêu thức “đại hạ giá” mà Coca-cola tung ra cũng không mấy hiệu quả vì luật pháp Việt Nam thời “đổ bộ” của Pepsi vào Việt Nam còn rất yếu kém về mặt quản lý kinh tế, nên Việt Nam hầu như không kịp trở tay khi Pepsi làm tan vỡ hầu hết các cơ sở sản xuất nước ngọt trong nước.Nhưng khi Coca-cola vào Việt Nam thì luật pháp Việt Nam đã kịp “điều chỉnh”, ra quy định về việc khuyến mãi không được bán dưới giá thành sản xuất và quy định phần trăm cụ thể. Hơn nữa khi Coca-cola “đại hạ giá” thì lập tức Pepsi cũng tung ra các chiêu thức khuyến mãi tương tự làm cho Coca-cola không thể tự ý thâu tóm thị trường Việt Nam.Cuối cùng, hai hãng này đều tung ra những chiêu thức tiếp thị-quảng cáo theo từng đợt trên các phương tiện truyền thông đại chúng tại Việt Nam.Tại Việt Nam, Pepsi không những có được một hệ thống phân phối tốt trên toàn đất nước mà họ còn có được những nhà quản lý và điều hành giỏi, am hiểu tâm lý của người Việt - điều này rất quan trọng. Thí dụ, “đánh” vào tâm lý yêu thích bóng tròn và tâm lý tự hào dân tộc của người Việt, Pepsi tổ chức “ngày hội bóng đá” thông qua show quảng cáo trên truyền hình,với hình ảnh cầu thủ bóng đá Việt Nam được yêu thích nhất thời bấy giờ, biểu diễn “tâng bóng” cùng với các danh thủ hàng đầu thế giới.Và đồng thời tung ra khẩu hiệu: “Uống Pepsi là ủng hộ đội tuyển quốc gia Việt Nam vươn ra đấu trường quốc tế”. Lập tức doanh số bán ra của Pepsi “tăng vọt” (nhất là trong các giải cầu của Ðông Nam Á, hoặc Châu Á có đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự), tình cảm của người dân Việt Nam đối với Pepsi cũng được gia tăng.Cũng cần phải nói thêm, “khẩu vị” của Pepsi hợp với người Việt hơn là Coca-cola. Chẳng hạn, chai to hơn, nước uống cũng ngọt đậm đà hơn. Ðiều này phù hợp với tâm lý tiêu dùng của người Viêt.
Cuộc cạnh tranh giữa “coca cola” và “pepsi cola"
Như vậy với hàng loạt các chiêu thức, quyết định quản lý của Pepsi đã càng làm cho môi trường cạnh tranh giữa Coca-Cola và Pepsi ngày càng gay gắt. Điều này khiến các nhà kinh tế học trên thế giới nhìn Pepsi với con mắt hoàn toàn khác, đồng thời làm cho Coca Cola thực sự cảm thấy không an tâm. Bên cạnh đó các yếu tố nguồn lực như vốn, cơ sở vật chất,kĩ thuật,con người… đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi công ty nhưng chúng chủ yếu lại là nguồn lực khan hiếm. Do đó công ty Coca-Cola cần phải lựa chọn sử dụng những nguồn lực đó một cách hiệu quả để tối thiểu hóa chi phí.
Từ những vấn đề cấp thiết mà thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu cách thức đưa ra quyết định quản lý để từ đó Coca-Cola có thể đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm tối đa hóa lợi nhuận cũng như giúp Coca-Cola có thể nắm bắt được phần trăm thị phần của mình ở Việt Nam. Xuất phát từ thực trạng trên nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát”.
1.2.Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài.
Với tính cấp thiết trên chúng em tuyên bố sẽ nghiên cứu về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng em đặt ra một số câu hỏi liên quan cần làm rõ trong đề tài:
Tình hình phát triển của công ty Coca-Cola?
Đối thủ lớn nhất của Coca-Cola là công ty nào? Tình hình phát triển của đối thủ đó?
Thị trường độc quyền nhóm- môi trường công ty Coca-Cola hoạt động-mang đặc trưng gì?
Coca-Cola có thể đưa ra quyết định quản lý về giá,sản lượng,quảng cáo…như thế nào để tối đa hóa lợi nhuận? Những chiến lược nào mà Coca-Cola áp dụng để đưa ra các quyết định đó?
1.3 Các mục tiêu nghiên cứu.
Khi tiến hành nghiên cứu,đề tài hướng tới các mục tiêu sau đây:
Tổng quan một số vấn đề lý thuyết về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Nêu và phân tích thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh, các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola. Tìm những tồn tại,hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola.
Áp dụng lý thuyết về cách thức đề ra quyết định quản lý để đề xuất một số giải pháp đưa ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola,Pepsi dựa trên cơ sở lý thuyết trò chơi, cân bằng Nash ,các chiến lược ưu thế,chiến lược bị lấn át,cây trò chơi,quyết định tuần tự… Từ đó đưa ra được quyết định quản lý chính xác nhất nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho công ty Coca-Cola.
-Phạm vi thời gian: nghiên cứu chỉ tập trung thu thập các số liệu liên quan trong giai đoạn 2000-2011: Đề xuất cách thức đưa ra quyết định quản lý cho công ty Coca-Cola nhằm tối đa hóa lợi nhuận giai đoạn từ 2012-2015.
-Phạm vi không gian: nghiên cứu hoạt động và các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola ở Việt Nam.
1.5 Kết cấu báo cáo nghiên cứu
Ngoài phần mục lục danh từ viết tắt, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được chia làm bốn chương như sau:
Chương I: Tổng quan nghiên cứu về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương II: Tóm lược một số vấn đề lý luận về quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương III:Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng của các quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương IV:Các kết luận và đề xuất cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát .
Chương II: Tóm lược một số vấn đề lý luận về quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Một số định nghĩa, khái niệm cơ bản
2.1. 1.Nét cơ bản về công ty Coca-Cola.
a. Công ty Coca-Cola.
Coca-Cola (còn được gọi tắt là Coke) là nhãn hiệu nước ngọt được đăng ký năm 1893 tại Mỹ. Cha đẻ của Coca Cola là một dược sỹ và theo cách hiểu của người dân Mỹ thời kỳ đó Coke (Coca Cola) là một loại thuốc uống. Sau này, khi mua lại Coca Cola, Asa Candler - Nhà lãnh đạo tài ba bậc nhất của Coca Cola đã biến chuyển suy nghĩ của người dân nước Mỹ về hình ảnh của Coca Cola. Ông cho những người tiêu dùng của mình hiểu thứ "thuốc uống" Coke là một loại đồ uống ngon lành và tươi mát. Cho đến ngày nay, Coca Cola vẫn trung thành với tiêu chí này của hãng. Hình dạng chai Coca-Cola được đăng ký bảo hộ năm 1960.
Cái tên Coca-Cola xuất phát từ tên lá coca và quả cola, hai thành phần của nước ngọt Coca-Cola. Chính điều này đã làm Coca Cola có thời kỳ khuynh đảo vì người ta đã quy kết Asa Candler là người đàn ông gây nghiện của thế giới. Hiện nay Coca-Cola trở thành hãng nước ngọt nổi tiếng thế giới với rất nhiều sản phẩm đa dạng như Coca-Cola Light (hay Diet Coke- Coca kiêng), Coca-Cola Cherry...
b.Lịch sử công ty Coca Cola Việt Nam
1960: Lần đầu tiên Coca-Cola được giới thiệu tại Việt Nam.
Tháng 2 năm 1994: Coca-Cola trở lại Việt Nam và bắt đầu quá trình kinh doanh lâu dài.
Tháng 8 năm 1995: Liên Doanh đầu tiên giữa Coca-Cola Đông Dương và công ty Vinafimex được thành lập, có trụ sở tại miền Bắc.
Tháng 9 năm 1995: Một Liên Doanh tiếp theo tại miền Nam mang tên Công ty Nước Giải Khát Coca-Cola Chương Dương cũng ra đời do sự liên kết giữa Coca-Cola và công ty Chương Dương của Việt Nam.
Tháng 1 năm 1998: Thêm một liên doanh nữa xuất hiện tại miền Trung - Coca-Cola Non Nước. Đó là quyết định liên doanh cuối cùng của Coca-Cola Đông Dương tại Việt Nam, được thực hiện do sự hợp tác với Công ty Nước Giải Khát Đà Nẵng.
Tháng 10 năm 1998: Chính Phủ Việt Nam đã cho phép các Công ty Liên Doanh trở thành Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các Liên Doanh của Coca-Cola tại Việt Nam lần lượt thuộc về quyền sở hữu hoàn toàn của Coca-Cola Đông Dương, và sự thay đổi này đã được thực hiện trước tiên bởi Công ty Coca-Cola Chương Dương – miền Nam.
Tháng 3 đến tháng 8 năm 1999: Liên doanh tại Đà Nẵng và Hà Nội cũng chuyển sang hình thức sở hữu tương tự.
Tháng 6 năm 2001: Do sự cho phép của Chính phủ Việt Nam, ba Công ty Nước Giải Khát Coca-Cola tại ba miền đã hợp nhất thành một và có chung sự quản lý của Coca-Cola Việt Nam, đặt trụ sở tại Quận Thủ Đức – Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ ngày 1 tháng 3 năm 2004: Coca-Cola Việt Nam đã được chuyển giao cho Sabco, một trong những Tập Đoàn Đóng Chai danh tiếng của Coca-Cola trên thế giới.
2.1.2. Một số nét cơ bản về Pepsi.
a. Công ty Pepsi.
Năm 1886, Bradham không thể hiểu được mức độ thành công của Pepsi trong tương lai khi mà ông pha chế ra một loại nước uống dễ tiêu làm từ nước cacbonat, đường, vani và một chút dầu ăn. Nó được bán trong khu vực dưới tên “Nước uống của Brad” nhưng năm 1893 Bradham đổi sang một cái tên mới “Pepsi-Cola”, nghe khoẻ khoắn, mạnh mẽ hơn và chuẩn bị đưa ra bán một cách rộng rãi hơn. Công ty Pepsi-Cola với trụ sở chính ở Purchase, New York, là một phần của Tập đoàn nước giải khát toàn cầu Pepsi Co, Inc.. Năm 2004, Pepsi Co đạt doanh thu hơn 200 tỉ đôla Mỹ và trở thành nhà cung cấp hàng đầu về doanh số bán hàng và lãi ròng cho các nhà bán lẻ ở nước Mỹ. Từ những khởi nguồn hết sức bình thường, Pepsi đã sống sót sau hai lần phá sản và trở thành công ty nước giải khát lớn thứ 2 trên thế giới. Ngày nay, biểu tượng toàn cầu của Pepsi là một trong những logo được biết tới nhiều nhất trên toàn thế giới. Các loại nước giải khát của Pepsi-Cola có thể được tìm thấy khắp nơi ở hơn 195 quốc gia trên thế giới. Năm 1991, Tập đoàn Pepsi lần đầu tiên đến Việt Nam với sản phẩm chất lượng cao và khẩu vị có thay đổi chút ít để phù hợp hơn với người tiêu dùng Việt Nam. Trải qua gần 15 năm hoạt động, Công ty Pepsi Việt Nam đã trở thành một thương hiệu quen thuộc với người dân Việt Nam.
b. Pepsi-đối thủ cạnh tranh hàng đầu của Coca-Cola.
Coca-Cola xuất hiện trên thị trường lần đầu tiên năm 1886 tại Atlanta (bang Georgia, Mỹ) và thường được nhắc đến với tên Coke. Pepsi có mặt trên thị trường muộn hơn, vào năm 1903, nhưng sau đó cả hai công ty này đều chiến đấu rất căng thẳng thông qua các quảng cáo in, video... để chiếm lĩnh vị trí của nhau. Một số hình ảnh quảng cáo in và truyền hình về "cuộc chiến quảng cáo" của hai hãng nước ngọt nổi tiếng này.
Nhân viên Pepsi uống Coca Cola.
Quảng cáo của Coca Cola và...
... của Pepsi.
Một quảng cáo của Pepsi được công bố vào ngày "Cá tháng tư".
Nhân viên Pepsi bị sa thải vì... "xét nghiệm cho thấy dương tính với Coca Cola".
2.2. Một số lý thuyết của vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Thị trường độc quyền nhóm.
Trên thị trường độc quyền nhóm có một số ít các hãng cung ứng phần lớn hoặc toàn bộ sản lượng của thị trường . Sản phẩm hàng hóa có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất và có rào cản lớn về việc gia nhập vào thị trường. Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các hãng là rất lớn. Lợi nhuận của các hãng trên thị trường độc quyền nhóm phụ thuộc lẫn nhau. Đây là đặc điểm riêng có của thị trường độc quyền nhóm. Khi số lượng hãng trên thị trường ít,các quyết định về sản lượng,giá cả… của bất kì hãng nào cũng tác động đến những điều kiện về cầu và doanh thu cận biên của các hãng còn lại trên thị trường. Do đó việc đặt giá bán hay quyết định mức sản lượng của một hãng phụ thuộc vào hành vi của các đối thủ cạnh tranh. Nguyên tắc xác định trạng tháni cân bằng của mỗi hãng dựa vào cân bằng Nash: Mỗi hãng thực hiện điều tốt nhất có thể khi cho trước hành động của các hãng đối thủ.
2.2.2. Quyết định chiến lược.
Hành vi chiến lược: Các hành động được các hãng tiến hành để lập kế hoạch và phản ứng lại các hành động cạnh tranh từ các hãng đối thủ.
Lý thuyết trò chơi: Lý thuyết cung cấp lời chỉ dẫn hữu ích về việc làm thế nào để hành xử trong các tình huống chiến lược có liên quan đến tình trạng phụ thuộc lẫn nhau.
2.2.3. Chiến lược ra quyết định đồng thời.
Chiến lược ra quyết định đồng thời xảy ra trong các thị trường độc quyền nhóm khi các nhà quản lý phải đưa ra các quyết định cá nhân mà không biết gì về quyết định của các đối thủ cạnh tranh. Các quyết định cá nhân của các nhà quản lý không nhất thiết phải xảy ra cùng một thời điểm.
2.2.4. Chiến lược ưu thế.
Chiến lược ưu thế là một chiến lược hoặc hành động mang lại kết cục tốt nhất dù cho các đối thủ có quyết định làm gì đi chăng nữa. Khi tồn tại chiến lược ưu thế,một người quyết định có lý trí luôn áp dụng chiến lược ưu thế. Họ dự đoán rằng nếu đối thủ của mình cũng có các chiến lược ưu thế thì họ cũng sẽ áp dụng các chiến lược ưu thế đó.
Trạng thái cân bằng chiến lược ưu thế tồn tại khi tất cả người ra quyết định đều có chiến lược ưu thế.
2.2.5. Tình thế lưỡng nan của người tù.
Bill
Không thú tội
Thú tội
Không thú tội
2 năm, 2 năm
12 năm, 1 năm
Thú tội
1 năm, 12 năm
6 năm, 6 năm
Jane
Cả hai đối thủ đều có chiến lược ưu thế là không thú tội. Nếu Bill à Jane hợp tác với nhau thì họ chỉ phải chịu mức phạt là 2 năm tù giam thay vì chọn chiến lược ưu thế thì cả 2 cùng chịu mức phạt là 6 năm tù giam. Như vậy ở trạng thái cân bằng chiến lược ưu thế,các đối thủ đều bị thiệt hơn so với trường hợp họ ra quyết định có hợp tác với nhau.
2.2.6. Các quyết định với một chiến lược ưu thế.
Khi một hãng không có chiến lược ưu thế nhưng ít nhất một trong các đối thủ có chiến lược ưu thế. Khi đó hãng dự đoán rằng đối thủ sẽ thực hiện chiến lược ưu thế của mình, khi biết hành động của đối thủ thì nhà quản lý có thể chọn chiến lược tốt nhất cho mình.
Ví dụ:
Pepsi
Cao ($ 10)
Thấp ($ 6)
Cao ($10)
$ 1000, $ 1000
$ 500, $ 1200
Thấp ($6)
$ 1200, $ 300
$ 400, $ 400
Coca-Cola
Thấy hãng Pepsi có chiến lược ưu thế là bán giá thấp. Hãng Coca-Cola dự đoán hãng Pepsi thực hiện chiến lược ưu thế của mình(bán giá thấp) khi đó hãng Coca-Cola sẽ lựa chọn bán giá cao để thu được lợi nhuận lớn nhất.
2.2.7. Các chiến lược bị lấn át.
Các chiến lược bị lấn át là những chiến lược sẽ không bao giờ được lựa chọn vì luôn có một chiến lược tốt hơn chúng. Sự loại trừ liên tiếp các chiến lược bị lấn át là một tiến trình ra quyết định lặp lại trong đó các chiến lược bị lấn át bị giảm thiểu để tạo ra một bảng lợi ích rút gọn với ít quyết định hơn cho các nhà quản lý xem xét.
Ví dụ:
Pepsi
Cao ($10)
Trung bình ($8)
Thấp ($6)
Cao ($10)
$ 1000, $ 1000
$900, $1100
$500, $1200
Trung bình ($8)
$ 1100, $400
$800,$800
$ 450, $500
Thấp ($6)
$ 1200, $ 300
$500,$350
$400,$400
Coca-Cola2.2.7. Ra quyết định tốt nhất cho các bên.
Các nhà quản lý sẽ chọn chiến lược nào mang lại lợi ích lớn nhất cho họ dựa trên hành động của đối thủ mà hãng dự đoán. Các nhà quản lý dự đoán rằng hành động của mỗi đối thủ là quyết định tốt nhất cho đối thủ đó, dựa trên dự đoán của đối thủ đó về hành động của các đối thủ khác. Các nhà quản lý tìm kiếm quyết định quản lý tốt nhất cho các bên.
2.2.8. Cân bằng Nash.
Là một tập hợp các hành động hay quyết định mà từ đó các nhà quản lý chọn ra quyết định tốt nhất khi đối thủ của họ đưa ra hành động mà họ dự đoán. Cân bằng Nash là một chiến lược mang tính ổn định, không hãng nào có thể được lợi hơn khi đơn phương thay đổi quyết định của mình.
Nếu chỉ tồn tại một cân bằng Nash duy nhất thì có thể mong đợi các đối thủ cùng thực hiện quyết định dẫn tới trạng thái cân bằng Nash. Khi có nhiều trạng thái cân bằng Nash thì không thể dự đoán được kết cục có thể xảy ra.
Cân bằng chiến lược ưu thế là một trường hợp đặc biệt của cân bằng Nash. Cân bằng Nash có thể xảy ra mà không có chiến lược ưu thế hay chiến lược bị lấn át nào.
2.2.9. Đường phản ứng tốt nhất.
Đường phản ứng tốt nhất dùng để phân tích và giải thích các quyết định đồng thời khi lựa chọn là liên tục( chứ không phải rời rạc). Đường phản ứng tốt nhất của một hãng cho thấy quyết định tốt nhất của hãng dựa trên quyết định mà hãng mong chờ đối thủ của mình sẽ thực hiện và thường thì đó là quyết định tối đa hóa lợi nhuận. Cân bằng Nash xảy ra khi các đường phản ứng tốt nhất của các hãng cắt nhau.
Ví dụ:
Hai hãng Coca-Cola và Pepsi hoạt động trong thị trường độc quyền nhóm và cạnh tranh nhau về giá cả. hai hãng đang lập kế hoạch để bán nước ngọt vào dịp tết Nguyên đán sắp tới. Cả hai nhà quản lý đều biết rằng hàm cầu của hai hãng là:
= 4000 25 + 12
= 3000 20 + 12
Và hàm chi phí:
= = $160
= = $180
Mối hãng cần biết mức giá tốt nhất cho mình trong điều kiện đối thủ của hãng ra mức giá mà hãng dự đoán. Nhà quản lý của hai hãng đều phải biết cả đường phản ứng tốt nhất của mình và đối thủ.
Giả sử hãng Coca-Cola cho rằng Pepsi định mức giá $100, đường cầu cả Coca-Cola là:
= 4000 25 + 12 x $100 = 5200 25
= 208 0,04
= 208 0,04
= 208 0,08
= => 208 0,08 160 => = 600, P = $184
Đồ thị A: Hãng Coca-Cola tin rằng Pepsi định mức giá $100
Tương tự nếu Coca- Cola dự đoán Pepsi định giá bán là $200 thì Coca-Cola sẽ đặt mức giá là P = $208.
Đồ thị B: Hai điểm trên đường phản ứng tốt nhất của Coca-Cola.
Đồ thị C: Các đường phản ứng tốt nhất và cân bằng Nash
Điểm N là điểm cân bằng Nash, là giao điểm của hai đường phản ứng tốt nhất của hai hãng. Tại điểm N không một hãng nào có thể đơn phương thay đổi quyết định của mình để đem lại thêm lợi ích cho hãng đó. Vì thế cân bằng Nash có tính ổn định, các hãng không có động cơ xa rời cân bằng Nash.
Cách xây dựng đường phản ứng tốt nhất.
Giả sử có hai hãng A,B hoạt động trên thị trường độc quyền nhóm và phải ra quyết định về giá. Hàm cầu đối với hai hãng lần lư