Người Việt ta xưa nay rất coi trọng tình nghĩa vợ chồng và luôn có ý thức vun vén. Tình cảm vợ chồng là tình cảm gia đình, xã hội. Nhưng với một xã hội đang phát triển như đất nước chúng ta, vấn đề Hôn nhân gia đình ngày càng phức tạp, trong việc phân chia tài sản và thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều này rất dễ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình do vậy việc xác định tài sản chung và riêng và việc thực hiện nghĩa vụ, quyền của vợ, chồng là vô cùng quan trọng nếu không muốn nói là nó sẽ quyết định đến cả một mái ấm gia đình. Vậy chúng ta xác định điều này như thê nào, hiểu như thế nào và pháp luật đã đưa ra những cơ sỏ pháp lí nào để quy định về vấn đề nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng. Mời các bạn cùng tôi tìm hiểu vấn đề này:
15 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2302 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Căn cứ để xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ chồng về tài sản và hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Người Việt ta xưa nay rất coi trọng tình nghĩa vợ chồng và luôn có ý thức vun vén. Tình cảm vợ chồng là tình cảm gia đình, xã hội. Nhưng với một xã hội đang phát triển như đất nước chúng ta, vấn đề Hôn nhân gia đình ngày càng phức tạp, trong việc phân chia tài sản và thực hiện nghĩa vụ của mình. Điều này rất dễ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình do vậy việc xác định tài sản chung và riêng và việc thực hiện nghĩa vụ, quyền của vợ, chồng là vô cùng quan trọng nếu không muốn nói là nó sẽ quyết định đến cả một mái ấm gia đình. Vậy chúng ta xác định điều này như thê nào, hiểu như thế nào và pháp luật đã đưa ra những cơ sỏ pháp lí nào để quy định về vấn đề nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng. Mời các bạn cùng tôi tìm hiểu vấn đề này:
1. Khái quát việc xác định nghĩa vụ chung và riêng của vợ - chồng về tài sản
Nghĩa vụ là Việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác. Theo đó có thể suy ra được nghĩa vụ chung là nghĩa vụ pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm của nhiều chủ thể (ví dụ: cả một trường học), còn nghĩa vụ riêng là Việc mà pháp luật hay đạo đức bắt buộc phải làm đối với một chủ thể nhất định (Ví dụ: Một lớp học trong một trường, hay một cá nhân trong một lớp.
Từ định nghĩa trên ta có thể hiểu nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài sản là những việc phải làm giữa vợ và chồng, tương tự nghĩa vụ riêng sẽ là việc mà mỗi người bắt buộc phải làm và theo pháp luật hay đạo đức bắt buộc nhằm thực hiện quyền lợi của chính họ và xã hội. .
Nói một cách dễ hiểu trong đời thường thì thế này: Chúng ta ai cũng có những tài sản riêng và tài sản chung với người khác. Tài sản riêng của ta thì ta tự định đoạt, muốn bán, tặng cho hay vứt bỏ gì cũng được, vì nó thuộc sở hữu của mình, mình có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Còn tài sản chung với người khác là những tài sản mà quyền sở hữu của ta trong đó gắn liền với quyền sở hữu của người khác. Ta có quyền này thì người ấy cũng có quyền đó đối với tài sản chung ấy. Do vây, ta không có toàn quyền quyết định trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung đó.
Vợ chồng cũng thế, họ tuy là hai người trong một gia đình, nhưng họ cũng có những tài sản chung và những tài sản riêng của mỗi người. Tài sản riêng của vợ thì vợ muốn làm gì với nó cũng được, chồng không có quyền can thiệp, nhưng tài sản chung thì vợ muốn định đoạt phải hỏi ý kiến và có sự đồng ý của chồng.
Pháp luật quy định tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất. Do đó, giao dịch liên quan đến tài sản chung hợp nhất thì phải có sự đồng ý của đồng sở hữu, trừ một số giao dịch nhỏ với tài sản nhỏ.
Từ cách hiểu trên đây ta có thể rút ra được: Nghĩa vụ chung và riêng của vợ chồng về tài sản cũng gắn với quyền của họ về tài sản. Tức là để xác định nghĩa vụ chung và riêng này đồng nghĩa với việc chúng ta phải xác định được tài sản chung và riêng của họ, từ đó mới xác định được những quyền cũng như nghĩa vụ chung hay riêng mà họ phải thực hiện
2. Căn cứ xác định nghĩa vụ chung, nghĩa vụ riêng của vợ - chồng về tài sản.
2.1 Căn cứ theo nguyên tắc pháp lí
Chế định tài sản chung và riêng của vợ chồng dược quy định rất rõ ràng trong luật Hôn nhân và Gia đình và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Vấn đề là xác định được đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng cũng không phải là đơn giản. Thường thì vợ chồng sẽ tranh chấp nhau về tài sản chung, nên nắm rõ đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng sẽ là cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp.
2.1.1 Tài sản và nghĩa vụ chung
Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 (Luật HNGĐ 2000): "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận”.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng (Ví dụ: quyền sử dụng đất…).
1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này"
Điêù 29 Luật hôn nhân gia đình:
Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
1. Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết.2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận."
Điều 30: "Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng."
2.1.2 Tài sản và nghĩa vụ riêng
Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân (khoản 1, Điều 32 Luật HNGĐ 2000).
Điều 32 và 33 Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định về tài sản riêng của vợ, chồng như sau:
“Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng; đồ dùng, tư trang cá nhân. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình”.
"Vợ, chồng tự quản lý tài sản riêng; trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không uỷ quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng."
2.1.3 Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
Được quy định tại Điều 95 như sau:
1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết”.
Điều 28 Luật hôn nhân gia đình:
"Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
2.2 Xác định nghĩa vụ chung và riêng của vợ - chồng về tài sản
Xác định nghĩa vụ chung và riêng của vợ - chồng về tài sản tức là phải xác định được tài sản chung và riêng của họ, khi đó mới phát sinh ra nghĩa vụ, cũng như là quyền chung và riêng của họ.
2.2.1 Tài sản chung
Việc xác định tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ sẽ dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Tài sản đó do vợ, chồng tạo ra, thu nhập lao động, kinh doanh trong thời kì hôn nhân, thu nhập hợp pháp, được tặng chung, những thỏa thuận hợp nhất từ tài sản riêng.
Bình thường rất khó xác định được phần tài sản nào của vợ hay chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ khi có sự phân chia tài sản mới có thể xác định phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó.
Tài sản chung ấy không nhất thiết phải do công sức của hai vợ chồng tạo ra. Có thể chỉ do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân.
Với quyền sử dụng đất, Luật Hôn nhân và gia đinh 2000 quy định quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ - chồng.
Đối với những tài sản mà pháp luật quy đinh ( thường có giá trị lớn) thì trong giấy chứng nhân phải có tên của cả vợ và chồng. Quy định này nhằm tăng thêm khối lượng tài sản chung cảu vợ chồng và bảo vệ lợi ích cũng như nghĩa vụ của vợ - chồng.
Như vậy tài sản chung hợp nhất của vợ - chồng là tài sản do cả hai tạo ra từ khi kết hôn đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận trên cơ sở pháp luật quy định. Cơ sở pháp lí đó là việc giấy chứng nhân quyền sử dụng tài sản chung đó phải có tên cả vợ và chồng.
2.2.2 Tài sản riêng
Luật Hôn nhân và gia đình đã khẳng định vợ chồng có quyền tài sản riêng và xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng. Chỉ có những tài sản của vợ chồng có từ trước hôn nhân, tài sản được thừa kế, tặng riêng trong thời kì hôn nhân, tài sản được chia từ khối tài sản chung và những hoa lợi, tức phát sinh từ tài sản đó đồ dung, tư trang cá nhân mới được coi là tài sản riêng.
Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của họ nên trong những trường hợp cần chia tài sản thì theo quy định của pháp luật tài sản của ai vẫn thuộc về người đó nếu người sở hữu chứng minh được tài sản đó là tài sản riêng của mình.
Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đinh đã xác định rõ chế độ tài sản chung và riêng của vợ, chồng do vậy vợ chồng không thể tự thỏa thuận để làm thay đổi chế độ tài sản của họ.
2.3 Những nghĩa vụ chung và riêng cụ thể về tài sản
2.3.1 Nghĩa vụ chung
Quyền và nghĩa vụ bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong viêc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình. Vì vậy cả hai phải có những nghĩa vụ nhất định, cụ thể:
2.3.1.1 Nghĩa vụ trong xây dựng và phát triển tài sản chung
Cả hai cùng phải có nghĩa vụ tạo ra tài sản cho gia đình, tức là phát triển khối tài sản chung đó. Muốn thế cần phải có những thỏa thuận giữa cả hai bên, nhất là những việc lớn ảnh hưởng đến tài sản chung của gia đình. Việc xác định cụ thể và mỗi người tạo giữ trách nhiệm ý thức tất yếu sẽ phát triển được nguồn lợi tài sản chung tăng lên.
Tuy nhiên không thể nói nghĩa vụ có nghĩa phải ép buộc vợ hoặc chồng phải làm việc. Tùy thuộc vào khả năng và sức khỏe công việc mà cả hai sẽ thực hiện những nghĩa vụ để phát triển tài sản.
Về mặt pháp lí không yêu cầu nghĩa vụ này là bắt buộc vì thực tế trong Luật Hôn nhân và gia đình nói chung và điểm này nói riêng khồng quy định về biện pháp chế tài. Không nhất thiết cả hai phải cùng có nghĩa vụ phát triển xây dựng tài sản chung và càng không nhất thiết phải bằng nhau về mặt vật chất đóng góp.
2.3.1.2 Nghĩa vụ trong bảo vệ, duy trì và quản lí tài sản chung
Cả vợ và chồng đếu phải có nghĩa vụ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ tài sản chung của gia đình. Chẳng hạn như, khi một vật dụng là tài sản chung của cả gia đình nhưng người sử dụng nhiều hơn là người vợ đang người chồng không thể cho là trách nhiệm riêng của người vợ được. Tránh trương hợp một trong hai vợ chồng có hành vi phá tài sản chung, hủy hoại tài sản chung hoặc tự mình thực hiện những giao dịch dân sự làm tổn thất khối tài sản chung, ảnh hưởng đến quyền gia đình.
Để duy trì tài sản chung trong gia đình, cần phải có sự đồng lòng, tức là nghĩa vụ của cả hai. Chẳng hạn vợ chồng phải duy trì mảnh đất của mình chứ không thể là vì lợi ích cá nhân của riêng ai đó có thể là vì một người thân thích trong họ mà cho rằng người vợ hoặc chồng hay chồng phải có trách nhiệm duy trì.
Vợ, chồng có nghĩa vụ quản lí tài sản chung của gia đình, có nghĩa là mọi tài sản chung đều phải được kê khai cả hai đều biết, kê khai chuẩn xác về tài sản. Sự quản lí tài sản chung phải công bằng, thống nhất và có sự thỏa thuận giữa vợ và chồng.
Tuy nhiên không nhất thiết mọi trường hợp cả hai buộc phải có nghĩa vụ trong bảo vệ, duy trì và quản lí tài sản chung, cũng nên dựa vào những hoàn cảnh cụ thể. Và đương nhiên việc không có biên pháp chế tài cho vấn đề này cũng khẳng đinh quyền sở hữu tài sản chung vẫn được coi là bình đẳng mà không dựa vào trách nhiệm, nghĩa vụ riêng của họ.
2.3.1.3 Nghĩa vụ trong chiếm hữu sử dụng, định đoạt tài sản chung
Trong việc, chiếm hữu định đoạt tài sản chung, pháp luật quy định phải có sự bàn bạc, thỏa thuận của vợ, chồng. Họ có quyền, nghĩa vụ bình đẳng. Cả hai đều có quyền chiếm hữu định đoạt chung với tài sản chung đó, túc là nghĩa vụ riêng phân biệt với những chủ thể khác mà khi có sự tranh chấp, cả hai đền có quyền định đoạt như nhau, cùng bảo vệ quyền định đoạt sở hữu của mình.
Trước hết, một trong hai có nghĩa vụ định đoạt khi người kia vắng mặt trước một vấn đề tranh chấp với một chủ thể khác, theo quy định của pháp luật. Đảm bảo lợi ích chính đáng của vợ, chồng trong thời kì hôn nhân thì việc chia tài sản chung khi một trong hai chết, tất nhiên người còn sống sẽ được quyền chiếm hữu, định đoạt.
Khi ly hôn, chia tài sản cả hai đều có quyền chia tài sản chung đó, tức là họ đã có quyền định đoạt, chiếm hữu riêng. Do vậy, tài sản chung đó sẽ được xác định là quyền sở hữu chung trước đó và vợ hoặc chồng có nghĩa vụ nhất định đến việc định đoạt cũng như sử dụng tài sản chung đó.
2.3.2 Nghĩa vụ riêng
Nếu dung “nghĩa vụ” trong trường hợp này thiết nghĩ có vẻ không phù hợp, chúng ta lầm tưởng một khi đã là tài sản riêng thì người đó sẽ không còn nghĩa vụ với ai tức là tài sản đó không tham gia vào mối quan hệ nào khác. Nhưng suy nghĩ như thế hoàn toàn theo cảm tính.
2.3.2.1 Nghĩa vụ bảo vệ duy trì, phát triển tài sản riêng
Điều này phụ thuộc vào quyền lợi của riêng mỗi người cho nên thực hiện nghĩa vụ này cũng chính là quyền lợi mà người đó có thể được hưởng. Trường hợp nếu vợ hoặc chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì vợ, chồng có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình, như vậy trong trường hợp này một bên đã thực hiện nghĩa vụ riêng của mình khi dùng tài sản riêng để thực hiện nghĩa vụ chung với gia đình. Điều đó cũng chính là một nghĩa vụ riêng nếu không muốn nói là tài sản chung cũng chính là bao gồm tài sản riêng. Đó cũng là một nghĩa vụ thực hiện để phát triển tài sản.
2.3.2.2 Nghĩa vụ không được xâm phạm tài sản riêng của nhau
Taì sản riêng của vợ, chồng thì họ có quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt độc lập không phụ thuộc vào ý chí của người kia. Nên trong trường hợp một trong hai vắng mặt có thể vì lí do bệnh tật hay công tác thì người kia có nghĩa vụ là không được xâm phạm đến tài sản riêng của vợ hoặc chồng mình. Thực hiện nghĩa vụ này cũng có nghĩa cả hai bao vệ quyền lợi của nhau.
Như vậy, nghĩa vụ riêng, không chỉ là việc quản lí và phát triển tài sản riêng của mình mà phải có cả nghĩa vụ không xâm phạm đến tài sản riêng của vợ hoặc chồng mình nữa.
3. Vai trò của việc xác định
3.1 Với nghĩa vụ tài sản chung
Xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong việc tạo nên khối tài sản nhằm xây dựng, bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó: phát triển kinh tế, nuôi con … vì vậy pháp luật quy định tài sản thuộc sở hữu chung không phụ thuộc vào công sức, đóng là hoàn toàn phù hợp để thực hiện tốt các chức năng gia đình. Có thể do điều kiện sức khoẻ, đặc điểm công việc và nghề nghiệp nên sự đóng góp công sức của vợ, chồng vào khối tài sàn chung không ảnh hưởng đến quyền lợi ngang bằng bình đẳng của họ.
Nghĩa vụ bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự có giá trị lớn thể hiện quyền lợi chung của vợ và chồng. Việc xác định như vậy sẽ tạo ra nhưng điều kiện thuận lợi để chính gia đình phát triển. Những công việc quan trọng cả vợ và chồng đều có quyền, nghĩa vụ thực hiện, tạo mối đoàn kết hoà thuận về mặt tình cảm.
Việc thực hiện nghĩa vụ chung cũng là việc bảo vệ quyền cho người vợ hoặc chồng mình. Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của họ về vấn đề tài sản, Luật cũng có những quy định về trường hợp một người chết hay chia tài sản khi ly hôn. Đó cũng chính là nghĩa vụ để thực hiện quyền lợi chung.
Như vậy, việc quy đinh về tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng ngoài việc bảo vệ lợi ích của chính họ cũng chính là phương pháp tốt để xây dựng tình cảm vợ chồng tốt đẹp hơn.
3.2 Với nghĩa vụ tài sản riêng
Việc quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi riêng của vợ hoăc chồng. Những tài sản riêng mà người kia không muốn bị bất cứ ai xâm phạm se tạo ra cho họ tâm lí thoải mái. Việc quy định này trước hết bảo đảm cho con người những quyền tối thiểu.
Việc thực hiện nghĩa vụ riêng của mỗi cá nhân sẽ thể hiện sự tôn trong lẫn nhau và điều đó sẽ làm cho tình cảm gia đình tốt đẹp, đồnh thời cũng là cách thể hiện nhân cách, đạo đức của mình với chính người vợ hoặc chồng của mình.
Khi xác định rõ nghĩa vụ tài sản riêng, đặc biệt với những tài sản có giá trị (ví dụ đất đai) cũng nhằm thể hiện quyền lợi riêng của một bên, và cũng có thể một lí do nào đó nó chưa thể sáp nhập vào khối tài sản chung được, điều đó sẽ ít gây khó khăn cho hay bên về việc giải quyết các vấn đề pháp luật quy định.
Như vậy, cũng giống như việc xác đinh tài sản và vai trò chung của tài sản, nghĩa vụ riêng cũng thể hiện được quyền lợi của một người hoặc cả vợ và chồng, thể hiện được sự tôn trọng lẫn nhau và tạo mối quan hệ đàon kết trong gia đình…
4. Thực tiễn một số vụ việc xác định vấn đề này
Ngày nay, vấn đề xoay quanh việc xác định tài sản cũng như nghĩa vụ chung và riêng của vợ chồng phức tạp. Các vụ việc xoay quanh vấn đề này tinh vi hơn, khó giải quyết hơn vì mối gia đình có những hoàn cảnh khác nhau. Vấn đề “sứt mẻ” gia đình ngày càng nhiều và việc ly hôn không phải là một vấn đề hiếm hoi nữa. Và tất yếu, việc xác đinh tài sản chung và riêng là cần thiết để đảm bảo quyền lợi của đôi bên.
Chúng ta cùng xem một số ví du thực tiễn và thử giải quyết nó theo quan điểm của mình:
Nguyễn Văn A có vợ là B và có 2 con (lớn 8 tuổi, nhỏ 2 tuổi). Vào 23 giờ, ngày 14.2.2008. Sau khi uống rượu cùng 1 số người bạn A trở về nhà, khi về đến nhà thấy vợ con không có ở nhà. Do bực tức với vợ từ trước (trước đó vợ chồng có xảy ra sô sát), cộng thêm bản thân A đang trong trạng thái say rượu, nên A đã châm đóm tự đem ra châm lửa vào mái nhà của mình. Khi phát hiện ra nhà của