1. Những trường hợp in nghiêng:
- Tên tác phẩm
- Các trích dẫn
2. Trường hợp in nghiêng, chữ đậm : Nội dung nhấn mạnh.
3. Những số ở trong ngoặc vuông [,]: số đầu chỉ nguồn trích dẫn theo thứ
tự trong “ Tài liệu tham khảo”, số thứ hai chỉ số trang của tài liệu trích
dẫn.
Ví dụ: [3,5] là nguồn trích dẫn lấy từ tài liệu Các văn bản pháp quy,
trang 5.
146 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 2190 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Câu quan hệ có từ “là” trong Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
________________
Bùi Mai Hương
CÂU QUAN HỆ CÓ TỪ “LÀ”
TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh -2009
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện đề tài này, tôi chỉ mong góp thêm một thử nghiệm vận dụng
lý thuyết về câu quan hệ, khảo sát, phân tích các ngữ liệu thu thập được nhằm
hiểu rõ thêm về câu quan hệ trong tiếng Việt.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Dư Ngọc Ngân-
người thầy đã dành nhiều thời gian, công sức, động viên, hướng dẫn tận tình
tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô
trong khoa Ngữ văn, phòng Khoa học-Công nghệ Sau Đại học, thư viện
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện cho tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp nơi tôi công tác đã
quan tâm, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2009
LỜI CAM ÐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa được
công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Mai Hương
QUI ƯỚC TRÌNH BÀY
Luận văn này chúng tôi trình bày theo những quy ước như sau:
1. Những trường hợp in nghiêng:
- Tên tác phẩm
- Các trích dẫn
2. Trường hợp in nghiêng, chữ đậm : Nội dung nhấn mạnh.
3. Những số ở trong ngoặc vuông [,]: số đầu chỉ nguồn trích dẫn theo thứ
tự trong “ Tài liệu tham khảo”, số thứ hai chỉ số trang của tài liệu trích
dẫn.
Ví dụ: [3,5] là nguồn trích dẫn lấy từ tài liệu Các văn bản pháp quy,
trang 5.
4. Những số trong ngoặc đơn ( ) có hai trường hợp:
a. Số thứ tự của các ví dụ: được đặt trước các ví dụ.
b. Cho biết nguồn của các ví dụ: đặt sau các ví dụ.
5. Những ví dụ không ghi chú nằm trong trường hợp:
- Những ví dụ do người viết đặt ra.
- Những ví dụ lấy từ đối thoại thực tế.
6. Tài liệu trích dẫn được viết tắt là : TD
DẪN NHẬP
0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ
thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch sử, nền văn hóa, mà cả trình độ văn
minh của một quốc gia, một dân tộc. Ngôn ngữ học, ngành khoa học nghiên
cứu về ngôn ngữ, có một vị trí rất quan trọng trong các khoa học xã hội và
nhân văn. Nó giúp chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ nói chung và đặc trưng của
các ngôn ngữ cụ thể. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ
cách nhận thức thế giới, cách truyền đạt tri thức và cách giao tiếp của các
cộng đồng ngôn ngữ. Hơn thế, nghiên cứu tiếng mẹ đẻ còn góp phần giữ gìn,
bổ sung, trau dồi cho ngôn ngữ của mỗi người ngày càng trong sáng hơn,
hoàn thiện hơn.
Hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu ngôn ngữ, yêu quý và
trân trọng tiếng mẹ đẻ, và suy nghĩ rằng nghiên cứu sâu tiếng Việt trên một
bình diện nào đó cũng đều rất quan trọng, chúng tôi chọn nghiên cứu về câu
quan hệ trong tiếng Việt. Trong ngữ pháp truyền thống, các nhà nghiên cứu
theo khuynh hướng cấu trúc chủ yếu khảo sát câu về cấu trúc hình thức. Gần
đây khuynh hướng ngữ pháp chức năng đã đi sâu tìm hiểu câu từ góc độ ngữ
nghĩa của câu, chẳng hạn dựa trên sự hình thành các quá trình (Process) để
phân ra các loại câu như: các quá trình vật chất (các quá trình hành động),
các quá trình tinh thần (các quá trình cảm giác) và quá trình quan hệ (các quá
trình tồn tại). Trong các loại câu đó thì câu quan hệ là loại câu khá đa dạng,
phong phú về ngữ nghĩa và được dùng phổ biến trong tiếng Việt cũng như
trong các ngôn ngữ khác. Từ trước tới nay, một số công trình về ngữ pháp
tiếng Việt có đề cập đến câu quan hệ nhưng có lẽ chưa có công trình nào
nghiên cứu sâu và cụ thể vào một khía cạnh nào đó của câu quan hệ. Chúng
tôi nhận thấy vấn đề “Câu quan hệ trong tiếng Việt” đặc biệt là “câu quan hệ
có từ “là” trong tiếng Việt” là một vấn đề lý thú và bổ ích nên quyết định
chọn làm đề tài luận văn.
Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi dùng các ngữ liệu trên ngôn ngữ
viết thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như phong cách khoa học,
phong cách chính luận, phong cách hành chính, phong cách ngôn ngữ văn
chương.
Luận văn khảo sát câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm các
mục đích sau đây :
- Tiếp xúc với các vấn đề lý thuyết về ngữ nghĩa học, về ngữ pháp chức
năng (đặc biệt là quan niệm của M.A.K. Halliday, S.C. Dik), vận dụng vào
việc khảo sát, lý giải một loại câu quan hệ trong tiếng Việt.
- Kết quả khảo sát, phân tích loại câu quan hệ có từ “là”trong tiếng Việt
có thể có những đóng góp thiết thực vào thực tiễn nói, viết và thực tiễn giảng
dạy tiếng Việt.
0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như trên đã nói, có rất nhiều công trình nghiên cứu về các kiểu quá
trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ, trong đó có quá trình quan hệ.
Ở mỗi công trình các tác giả có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Luận
văn không có tham vọng bao quát đầy đủ quá trình nghiên cứu về câu quan hệ
trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Thông qua tìm hiểu
của bản thân, chúng tôi chỉ cố gắng điểm qua tình hình nghiên cứu câu quan
hệ của những tác giả tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam.
Trên thế giới:
Các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ được rất
nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều cách tiếp
cận các quá trình này với những quan điểm khác nhau. Công trình nghiên cứu
được xem là đầy đủ, xứng đáng được xem là một cuốn sách giáo khoa cho
những ai muốn tìm hiểu về các kiểu quá trình trong hệ thống ngôn ngữ, là của
M.A.K.Halliday. Đó là cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng”. Các quá trình
mà M.A.K.Halliday miêu tả chủ yếu là trong tiếng Anh, nhưng xét thấy có
nhiều điểm có thể vận dụng vào tiếng Việt nên luận văn của chúng tôi áp
dụng những mô hình lý thuyết mà ông đưa ra để giải thích và nghiên cứu về
câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. M.A.K.Halliday khái quát về quá
trình quan hệ (Relational processes) như sau: “để liên hệ mảng này với mảng
kia của thế giới kinh nghiệm: cái này giống cái kia, cái này là một loại của
cái kia là quá trình quan hệ” [24, 206]. Hệ thống các quá trình quan hệ trong
tiếng Anh của M.A.K. Halliday hoạt động theo ba kiểu chính là:
Quan hệ sâu (intensive): ‘x is a’ x là a
Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ x ở a
Quan hệ sở hữu (possessive): ‘x has a’ x có a
Mỗi kiểu như vậy xuất hiện dưới hai phương thức tách biệt mà Halliday
gọi là phương thức đồng nhất (identifying) và phương thức định tính
(attributive). Như thế, chiếu theo phương thức quan hệ và kiểu quan hệ mà
ông đưa ra, sẽ có sáu cặp phạm trù quan hệ tương ứng. Những đóng góp của
Halliday về các quá trình chuyển tác có giá trị rất lớn với tiếng bản xứ (Anh)
và cả với các ngôn ngữ khác trên thế giới, chẳng hạn tiếng Việt.
Cùng với M.A.K. Halliday, các nhà chức năng luận khác như Fawcett,
V.Z. Panfilov, C. Fillmore, Simon C.Dik cũng đề cập đến câu quan hệ hay
loại câu tương tự câu quan hệ.
Nhà ngôn ngữ học Simon C. Dik trong Functional Grammar (Ngữ pháp
chức năng-1978), đã dùng thuật ngữ “sự tình” (cái có thể là tình huống trong
một thế giới nào đó). S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động
(Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự tình:
hành động, quá trình, trạng thái, tư thế (xem bảng trình bày các sự tình của
S.C. Dik) trong đó không có loại hình sự tình quan hệ. Đến năm 1989, S.C.
Dik đưa thêm Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng
phân loại gồm sáu sự tình: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động
hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến
đổi (Change), Quá trình biến động (Dynamism). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
những khiếm khuyết như Siewierska (1991) thừa nhận: “Những loại hình sự
thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.”
[54, số 10, tr.14]. Diệp Quang Ban cho rằng ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách
phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng nhưng rất khó để tìm kiếm được
một giải pháp khả thi mới để kết hợp cả hai cách phân loại của S.C. Dik và
M.A.K. Halliday.
Bảng trình bày các loại sự tình của S.C. Dik.(nguồn NPCN,tr.50)
Sự tình
+ Động
Sự kiện
-Động
Tình huống
+ Chủ ý Hành động Tư thế
- Chủ ý Quá trình Trạng thái
Sự tình quan hệ ở đây được S.C. Dik xem là một thể loại của sự tình
trạng thái và cũng dựa trên những phân biệt trong các chỉ định của kết cấu vị
ngữ hạt nhân.
Ví dụ:
(1) The substance is red .(trạng thái)
(2) The table stood in the corner. (trạng thái) [-Động,-Chủ ý]
(3) John tasted the wine in the soup. (trạng thái)
Theo S.C. Dik “ Nếu một kết cấu vị ngữ trạng thái chỉ có một tham tố,
tôi cho rằng tham tố đó có chức năng nghĩa là zero. Tôi thấy không có lý do
gì để quy gán bất kỳ một chức năng ngữ nghĩa cụ thể nào cho các tham tố
như thế.
Các tham tố kết cấu vị ngữ trạng thái hai vai thường có hai tham tố
chức năng zero, và thậm chí có thể có sự tình trạng thái ba vai với ba tham tố
chức năng zero. Tuy nhiên, tham tố thứ hai trong các kết cấu vị ngữ trạng
thái cũng có thể có chức năng thời gian hay vị trí.” [29; 54]
Ví dụ:
(4) Rose ф are red.
(5) That man ф is the killer. ф chức năng nghĩa là zero.
(6) The cup ф is on the table.
Theo nhận định của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp
chức năng thì tiêu chí (+Động, - Động) và (+Chủ ý, -Chủ ý) của Simon
C.Dik rất quan trọng đối với nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới. S.C.Dik đã
đưa ra được một lược đồ khá cơ bản, thế nhưng sự đơn giản ấy lại làm cho
lược đồ của ông trở nên khó ứng dụng, chẳng hạn ô tư thế (+chủ ý,-động)
không cân bằng với ba ô còn lại. Các vị từ làm hạt nhân cho loại câu này như
đứng, ngồi, nằm, quỳ có thể đếm trên đầu ngón tay, theo thống kê không
tới 0,2% trong số các vị từ làm hạt nhân cho các loại câu nằm ở ô hành động,
trạng thái, quá trình. Không chỉ vậy, lược đồ của Dik khó có thể chia ra chi
tiết hơn nữa, chẳng hạn không thể xếp các câu tồn tại, câu định vị (ví dụ như
câu: “Cá nằm trên thớt” không được xếp vào ô loại tư thế vì thiếu tiêu chí (+
chủ động).), hay câu đẳng thức .v.v không xếp vào ô nào trong bốn ô phân
loại các loại sự tình của Dik). Như vậy, không thể dựa vào bảng phân loại sự
tình của S.C. Dik để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.
John Lyons, nhà ngôn ngữ học truyền thống ở Anh, tiếp cận vấn đề từ
quan điểm logic. Ông cũng đã đưa ra các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu
tương tự thuật ngữ “các quá trình quan hệ” mà luận văn đang đề cập. John
Lyons cho rằng trong rất nhiều ngôn ngữ có những tương tự hiển nhiên giữa
những câu định vị và câu tồn tại, chẳng hạn:
Ví dụ: Tiếng Anh
(7) Coffee will be here in a moment. không có sự khác nhau
(7’) There will be coffee here in a moment. về nghĩa giữa (7) và (7’)
John Lyons, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic học, với các câu tồn tại
câu định vị, và câu sở hữu, ông phân ra làm hai xu hướng “vị ngữ tính”
(tương đương với câu tả trong tiếng Việt) và “vị ngữ danh” (tương đương với
câu luận trong tiếng Việt). Tuy nhiên, vì sự phân tích cú pháp của các câu có
“vị ngữ danh” phức tạp nên ông quyết định bỏ qua tất cả những điểm khác
nhau giữa các tiểu loại và phân tích tất cả như những “vị ngữ danh từ”.
Đặc biệt, trong Nhập môn ngôn ngữ học ông nói nhiều đến “động từ là”
và “động từ có”, ông cho rằng đó là những câu tồn tại, định vị và sở hữu có
quan hệ qua lại trong nhiều ngôn ngữ “cái thường được gọi là “động từ
là”, và “động từ có” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố
ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng để “mang” các dấu hiệu về thời, thức, thể ở cấu
trúc nổi của câu.”
Theo mô hình của Fawcett, giao điểm của kiểu quá trình và kiểu đương
thể cho ra 12 kiểu quá trình quan hệ trong tiếng Anh.
Mô hình các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của Fawcett: Các hệ thống
ban đầu. [40, 273]
Hoàng Văn Vân cho rằng “ đây là một mô hình chi tiết và đã đi sâu
vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình quan hệ trong tiếng Anh Mô hình
của Fawcett quan tâm đến những kiểu quá trình cụ thể hơn là đến sự khái
quát hóa các quá trình quan hệ”. [40, 276]. Cũng theo Hoàng Văn Vân, mô
hình các quá trình quan hệ của Fawcett đã không thể hiện được sự khái quát
hóa các quá trình quan hệ; đồng thời trong công trình nghiên cứu về các quá
trình quan hệ của Fawcett cũng không hề đề cập đến hệ thống Dạng (là một
Định tính
Đương thể đơn
Sở hữu
Định vị
Kiểu đương thể Đương thể bị tác động
Đương thể tác nhân
Đương thể thứ ba thể thứ ba
Kiểu quá trình
hệ thống mà chính Fawcett khẳng định không thể thiếu khi nghiên cứu các
công trình ngữ pháp) đồng thời “ nếu chấp nhận một mô hình như vậy sẽ
làm cho vấn đề trở nên phức tạp vì người ta phải xây dựng lại các tiêu chí
định nghĩa” [40, 277] cho tất cả các quá trình trong hệ thống chuyển tác của
ngôn ngữ.
Từ việc tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
theo hướng chức năng luận, chúng tôi nhận thấy mô hình miêu tả quá trình
chuyển tác quan hệ của M.A.K. Halliday là mô hình lý thuyết phù hợp nhất để
miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.
Tại Việt Nam
Đã có khá nhiều công trình ngữ pháp đề cập trực tiếp đến câu quan hệ
như Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Bùi Minh Toán,
Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thị Kim Liên Ngoài ra còn có những công trình
nghiên cứu về những kiểu câu tương tự câu quan hệ như câu tả, câu luận,
trong sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việ t Nam
(1983), hay những những động từ chỉ các trạng thái tâm lý hướng tới đối
tượng, biểu thị trạng thái tồn tại, sở hữu có thể có thành tố phụ sau là một
danh từ, cụm danh từ chỉ đối tượng như : có, còn, xuất hiện, diễn ra trong
Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Thị Ly Kha, hay những bài viết cùng bàn về
cấu trúc “Danh là Danh” và các mối quan hệ của nó của Lê Xuân Thại,
Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Thêm, v.v Từ những năm 2000 trở lại đây,
cũng có một số bài viết đề cập đến một số tiểu loại của câu quan hệ trong
tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, của các tác giả Nguyễn Thị
Thanh Phương, Nguyễn Thế Lịch , hoặc so sánh đối chiếu câu quan hệ
tiếng Việt với tiếng Anh của Hoàng Tuyết Minh nhằm tìm ra một số lỗi người
Việt thường mắc khi sử dụng động từ quan hệ tiếng Anh
Cao Xuân Hạo kế thừa lược đồ phân loại các loại sự tình cơ bản của
S.C. Dik nhưng ông xếp loại câu quan hệ và câu trạng thái vào một loại câu,
đó là câu chỉ tình hình : “Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ
trạng thái với câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản
thân chủ thể (thực thể mang nó, hay ở “trong trạng thái” đó). Quan hệ là một
tình hình mà nội dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp
xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh.” [13, 430].
Cao Xuân Hạo đưa thêm sự tình tồn tại (hiện hữu), mà S.C.Dik còn thiếu, vào
hàng sự tình cơ bản bậc một ngang hàng với biến cố và tình hình. Cao Xuân
Hạo đã thay ô sự tình tư thế (bậc hai) của S.C. Dik bằng loại quan hệ và xem
vị trí của nó tương đương với vị trí của sự tình trạng thái trong những sự tình
tĩnh [-Động].
Theo khảo sát trên tư liệu tiếng Việt của tác giả Bùi Minh Toán và Lê
Thị Lan Anh thì bên cạnh những nét cơ bản phù hợp hệ thống các quá trình
mà M.A.K. Halliday nghiên cứu “có thể nhận thấy chỉ có một số kiểu sự
tình quan hệ là được tổ chức theo cả hai phương thức đồng nhất và định tính”
[2, 1], chẳng hạn quan hệ cảnh huống (chỉ có loại quan hệ vị trí và quan hệ
nguyên liệu là tổ chức theo hai phương thức đồng nhất và định tính; còn các
quan hệ cảnh huống khác như: quan hệ mục đích, quan hệ so sánh, quan hệ
tương hỗ, quan hệ nguyên nhân, quan hệ nguồn gốc, quan hệ vai diễn thì
không tồn tại cả hai phương thức trên.), hay quan hệ sở hữu (chỉ tổ chức theo
một phương thức định tính). Trong bài viết “Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện
thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ ”, tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị
Lan Anh đã đưa ra 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt theo quan niệm
của M.A.K. Halliday. Tiếc là bài viết này không coi “câu quan hệ có từ là”
như là một đối tượng nghiên cứu mà chỉ nói chung chung đến các loại sự tình
quan hệ trong tiếng Việt.
Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam cũng
nhắc đến câu quan hệ nhưng dưới thuật ngữ câu tả và câu luận. Đây cũng
chính là hai loại câu chính của câu đơn hai thành phần được làm thành từ một
cụm chủ ngữ (C)- vị ngữ (V), chủ ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau.
Câu tả là loại câu để biểu thị một quá trình miêu tả đối tượng trong hoạt
động, trạng thái hay tính chất của nó. Câu tả có nghĩa về trạng thái tồn tại của
sự vật (câu tồn tại) có phần đề do từ loại danh từ, phần thuyết do tiểu loại
động từ tồn tại đảm nhận (có, còn, hết), đây là loại câu khá đặc biệt, tương
đương câu quan hệ mang đặc điểm “không có từ là”. Vì ở luận văn này chúng
tôi nghiên cứu loại “câu quan hệ sâu có từ là” trong tiếng Việt, nên chúng tôi
sẽ nhắc nhiều đến loại câu luận là loại câu tương đương câu quan hệ đặc biệt
“có dùng động từ là”.
Câu luận là kiểu câu biểu thị một quá trình tư duy và thông báo mang
tính suy luận, phán đoán. Nó có thể đưa ra một nhận xét, một ý kiến đánh giá
và đôi khi mang tính triết lý. Vị từ “là” trong câu luận có thể coi là động từ
mang trọng trách đặc biệt, làm “chính tố”, “động từ thuyết tính của câu luận”.
Ví dụ:
(8) Tổ chức là biện pháp cơ bản để thực hiện chính sách . (mô hình A là B)
A B
(9) Ruộng rẫy là chiến trường. (mô hình A=B)
A B
Câu luận trong tiếng Việt là loại câu tương đương “câu quan hệ sâu có
từ là”. Đó là một loại câu có cách thể hiện khá đa dạng.
Ví dụ: Câu luận “A là B”
(10) Cuốc cày là vũ khí. [39, 185] có thể thay đổi vị trí A và B
[57, 185]
(11) Nguyên tắc là nguyên tắc. [39, 185] có thể thay đổi vị trí A và B.
(12) Hà là một cán bộ nhà nước.[39, 183] không thể thay đổi vị trí A và B
Như trên có thể thấy loại câu luận có mô hình “A là B” tương đương
câu quan hệ sâu đồng nhất và định tính,“là” ở câu luận đóng vai trò là động từ
(vị từ) chứ không phải trợ từ.
Diệp Quang Ban đã đưa ra cách phân loại chi tiết và khá bao quát cho
các loại câu tồn tại. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy, cách phân loại của ông
không đưa ra được “một mô hình toàn diện nhất để giải thích các kiểu quá
trình quan hệ.” tức là phải đáp ứng “ ba điều kiện: (i) nó phải xem ‘quan
hệ’ như là một đặc điểm của cả cú chứ không phải chỉ là một đặc điểm của
động từ; nghĩa là, nó phải được trừu tương hóa để có đủ sức giải thích cho
những đặc điểm cụ thể của các quá trình quan hệ trong tiếng Việt; và (ii) nó
phải được kiểm chứng bằng sự phù hợp của cả hai tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ
pháp-từ vựng’’[40, 271].
Lê Thị Lan Anh bàn nhiều về sự tình quan hệ trong bài viết “Đặc trưng
ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”. Tác giả đã đưa ra vị
tố biểu thị quan hệ so sánh trong tiếng Việt gồm: như, như thể, in như, như,
giống, khác, khác biệt, bằng, hơn, kém, tựa, hệt, sánh, ví, tày ... và tổ hợp của
các vị tố này: như là, hệt như, giống như là, y hệt như là , đồng thời đưa ra
khá đầy đủ những ví dụ để phân tích, chứng minh làm nổi bật các đặc trưng
ngữ nghĩa của sự tình so sánh trong tiếng Việt. Tuy nhiên bài viết không nhắc
đến vị từ “là”, trong khi “là” cũng có thể là một vị từ so sánh trong một số
trường hợp. Bài “Phương thức định tính và đồng nhất trong sự tình quan hệ
thâm nhập” của Lê Thị Lan Anh dùng thuật ngữ “thâm nhập” thay vì thuật
ngữ “sâu” của M.A.K. Halliday, nhưng về cơ bản cũng dựa trên mô hình “x
is a”, dựa trên cơ sở lý thuyết của M.A.K. Halliday để xem xét loạ