Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân , là cơ quan quyền lực cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ ngĩa việt nam. Quốc hội cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những chính sách cơ bản của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quyền giám sát của quốc hội và việc thực hiện quyền giám sát của quốc hội đối với hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước là vấn đề hết sức quan trọng, có ý ngĩa hết sức quan trọng , góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Một trong những hoạt động giám sát quan trọng của quốc hội là hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Thông qua hoạt động chất vấn, đại biểu quốc hội thể hiện trách nhiệm của người đại biểu trước nhân dân, nhiều vấn đề bức xúc của xã hội được đại biểu đưa ra để tìm giải pháp khắc phục.
Một trong những giải pháp quan trọng mang tính quyết định để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của giám sát của quốc hội là phải đổi mới hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát của quốc hội trong đó có việc thực hiện chất vấn đại biểu quốc hội. Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt động của hoạt động chất vấn của ĐBQH ta có thể đề ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đại biểu nói chung và hoạt động chất vấn nói riêng, tạo điều kiện để đại biểu quốc hội thực hiện ngày càng tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn đề tài này để làm cho bài tập học kì của mình.
Với đề tài này em xin giải quyết theo 3 luận điểm chính:
Luận điểm 1: Cơ sở của hoạt động chất vấn
Luận điểm 2: thực trạng hoạt động chất vấn ở Việt nam
Luận điểm 3: giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn
Mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
13 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1904 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chất vấn và trả lời chất vấn Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân , là cơ quan quyền lực cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ ngĩa việt nam. Quốc hội cũng là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những chính sách cơ bản của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quyền giám sát của quốc hội và việc thực hiện quyền giám sát của quốc hội đối với hoạt động của toàn bộ bộ máy nhà nước là vấn đề hết sức quan trọng, có ý ngĩa hết sức quan trọng , góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. Một trong những hoạt động giám sát quan trọng của quốc hội là hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn. Thông qua hoạt động chất vấn, đại biểu quốc hội thể hiện trách nhiệm của người đại biểu trước nhân dân, nhiều vấn đề bức xúc của xã hội được đại biểu đưa ra để tìm giải pháp khắc phục.
Một trong những giải pháp quan trọng mang tính quyết định để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của giám sát của quốc hội là phải đổi mới hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát của quốc hội trong đó có việc thực hiện chất vấn đại biểu quốc hội. Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn hoạt động của hoạt động chất vấn của ĐBQH ta có thể đề ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của đại biểu nói chung và hoạt động chất vấn nói riêng, tạo điều kiện để đại biểu quốc hội thực hiện ngày càng tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em đã chọn đề tài này để làm cho bài tập học kì của mình.
Với đề tài này em xin giải quyết theo 3 luận điểm chính:
Luận điểm 1: Cơ sở của hoạt động chất vấn
Luận điểm 2: thực trạng hoạt động chất vấn ở Việt nam
Luận điểm 3: giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn
Mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giám sát là một chức năng cơ bản, quyền đặc biệt của quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất. Quyền giám sát của quốc hội mang tính quyền lực nhà nước cao nhất và đối tượng giám sát của quốc hội sẽ là tầng cao nhất của bộ máy nhà nước bao gồm có chủ tịch nước, chính phủ, tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân tối ca, những người đứng đầu các cơ quan này và các thành viên của chính phủ. Với chức năng giám sát tối cao của mình, quốc hội có vai trò trách nhiệm rất lớn trong việc đảm bảo hiến pháp và pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trên cả nước; đảm bảo cho bộ máy nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn, hoạt động có hiệu quả hơn. Hoạt động giám sát của quốc hội mang tính tổng quát, bao trùm, mang tính định hướng nhất định đối với những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, những vấn đề mà nhân dân cả nước quan tâm.
Để thực hiện quyền giám sát một cách có hiệu quả, quốc hội có thể thông qua nhiều phương thức khác nhau trong đó có hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ CƠ SỞ CHO HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
1, Cơ sở lý luận
Chất vấn là một biện pháp thực hiện quyền giám sát của Quốc hội.
Chất vấn là quyền của ĐBQH đòi hỏi một cơ quan nhà nước, một nhà chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo, giải thích trước cơ quan quyền lực nhà nước về những khuyết điểm, những tồn tại trong hoạt động, công tác của cơ quan mà cá nhân đó phụ trách, trả lời về nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Điều 98, hiến pháp 1992 quy định: “Đại biểu quốc hội có quyền chất vấn chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao và viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn phải trả lời trước quốc hội tại kỳ họp; trong các trường hợp cần điều tra thì thì quốc hội có thể cho trả lời trước UBTVQH hoặc tại kỳ họp sau của quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản”.
Chất vấn là một hình thức giám sát quan trọng, là quyền quan trọng của đại biểu quốc hội được hiến pháp quy định. Trong hoạt động quốc hội, chất vấn là khái niệm có ngoại vi rộng tạm gọi là sự “ đối thoại mang tính quyền lực. Điều 49 luật tổ chức quốc hội 2001 quy định: “ Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn.
Trong thời gian Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.
Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.
Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn. ”
Chất vấn, với tư cách là một hình thức giám sát của quốc hội, được phân biệt với các hình thức khác chủ yếu ở bản chất, mục đích, thủ tục và hậu quả của nó.
Về bản chất, chất vấn là một hình thức được quốc hội áp dụng để giám sát các cơ quan và cá nhân được giao quyền, là sự thể hiện cụ thể, trực tiếp quyề giám sát tối cao của quốc hội. Các đại biểu quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn của mình là nhân danh cá nhân với tư cách là người đại diện của quyền lực nhân dân, thay mặt nhân dân yêu cầu cá nhân bị chất vấn trả lời về trách nhiệm pháp lý của cá nhân đó về những việc làm có đúng với chức năng, nhiệm vụ quyền hạn theo luật định hay không.
Theo quy định của pháp luật thì chất vấn là quyền của cá nhân đại biểu quốc hội. Khi thực hiện chất vấn, đại biểu quốc hội độc lập là người đại diện cho nhân dân. nhân danh quyền lực tối cao của nhân dân chứ không phải nhân danh một cơ quan, tổ chức hay đoàn đại biểu quốc hội mà mình là thành viên.
Mục đích của Đại biểu quốc hội khi thực hiện hoạt động chất vấn không chỉ đơn thuần là thu thập thông tin hay số liệu mà nhằm làm rõ trách nhiệm của cá nhân có trách nhiệm đối với một vấn đề nào đó. Đây chính là điểm cơ bản để phân biệt chất vấn với một câu hỏi thường
2, Cơ sở pháp lý của hoạt động chất vấn
Quá trình hình thành và hoàn thiện những qui định về hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội ở nước ta gắn liền với quá trình hình thành và hoàn thiện bộ máy nhà nước, đặc biệt là gắn liền với sự ra đời của 4 bản hiến pháp (Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992). Có thể nói mỗi bản hiến pháp là một bước phát triển của quy định về hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội nước ta.
Ở hiến pháp năm 1946, mặc dù không quy định cụ thể quyền giám sát của Nghị viện nhưng quyền này cũng được thể hiện trong một số nhiệm vụ quyền hạn cụ thể của Nghị viện được quy định trong hiến pháp. Cụ thể là, Nghị viện có quyền kiểm soát và phê bình chính phủ, thông qua hoạt động này Nghị viện có quyền thể hiện thái độ của mình đối với hoạt động của các Bộ trưởng và Nội các "Bộ trưởng nào nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức, toàn bộ Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về một hành vi của bộ trưởng" (Điều 54). Việc giám sát hoạt động của chính phủ còn thông qua việc Nghị viện chất vấn các bộ trưởng. Đây là quy định đầu tiên về hoạt động chất vấn, do hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh lập pháp lúc bấy giờ mà quy định này mới được hình thành một cách khái quát.
Sang hiến pháp 1959 hoạt động giám sát của quốc hội đã được quy định tương đối cụ thể. Theo đó Quốc hội “giám sát việc thi hành hiến pháp” (Điều 50), quyền giám sát của quốc hội cũng được quy định cụ thể hơn. Về hoạt động chất vấn, với tư cách là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đại biểu quốc hội có quyền "Các đại biểu quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ. Cơ quan bị chất vấn phải trả lời trong thời hạn 5 ngày, trường hợp cần phải điều tra thì thời hạn trả lời là 1 tháng" (Điều 59). Theo hiến pháp năm 1959 thì tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về tay nhân dân và nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua quốc hội. Do vậy hiến pháp cũng quy định quyền chất vấn là của cá nhân đại biểu quốc hội chứ không phải là quyền của tập thể như trước kia. Đại biểu Quốc hội phải nắm bắt được nguyện vọng, những vấn đề bức xúc của nhân dân để phản ánh với các cơ quan Nhà nước thông qua hoạt động của mình, mà cụ thể là chất vấn Hội đồng chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ về những vấn đề nhân dân có ý kiến.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1980 được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Quốc hội 1981, Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ (Điều 6), "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 82). Do vậy hoạt động giám sát của Quốc hội mà cụ thể là hoạt động của đại biểu Quốc hội được kế thừa và hoàn thiện hơn, thể hiện sự gắn bó giữa quốc hội và nhân dân. Quốc hội thể hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước mà cụ thể là thực hiện quyền Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao...Cụ thể là quền chất vấn của đại biểu Quốc hội được kế thừa và hoàn thiện hơn không chỉ đối với Hội đồng bộ trưởng, các thành viên của Hội đông bộ trưởng mà còn đối với cả Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Những quy định của pháp luật hiện hành về chất vấn và trả lời chất vấn
Từ nhiệm kỳ Quốc hội khóa IX đến nay về tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội, đã có nhiều đổi mới, các hình thức hoạt động của Quốc hội ngày càng được cải tiến. Quốc hội ngày càng được thực hiện tốt hơn nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Kế thừa quy định của hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (Điều 83) tiếp tục khẳng định quyền giám sát của Quốc hội, theo đó Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Cụ thể, Điều 98 Hiến pháp năm 1992 quy định: Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước trước quốc hội tại kỳ họp, trong trường hợp cần thiết phải điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.
Hiến pháp năm 1992 mở rộng và cá thể hóa trách nhiệm của người bị chất vấn, đặc điểm của quyền chất vấn của đại biểu quốc hội theo hiến pháp năm 1992 là các đại biểu không chất vấn cơ quan nhà nước nói chung mà chất vấn cá nhân, người đứng đầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng chính phủ, bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức quốc hội năm 1992 cũng đã quy định cụ thể về hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 ra đời là cơ sở pháp lý đầy đủ đảm bảo cho hoạt động chất vấn được thực hiện một cách đầy đủ. Điều 40 quy định "Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nội dung chất vấn phải ngắn gọn, rõ ràng, có căn cứ và liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn , trách nhiệm cá nhân của người bị chất vấn. Chất vấn được thực hiện bằng văn bản hoặc lời nói trực tiếp”.
Trình tự, thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được thực hiện theo quy định tại Điều 11 và Điều 19 của Luật lao động giám sát của Quốc hội.
Người trả lời chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, tại ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc đã trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với các Đại biểu quốc hội bằng văn bản về việc thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời chất vấn tại kỳ họp.
Về cơ bản hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong và ngoài kỳ họp đã được thể hiện rất rõ trong quy định nêu trên. Ngoài các văn bản trên, Quốc hội còn ban hành các Nghị quyết quy định hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu quốc hội, Nghị quyết quy định về nội quy kỳ họp của Quốc hội... nhằm cụ thể hóa một cách cụ thể và đầy đủ quy trình thực hiện hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn.
Hoạt động chất vấn đã được ủy ban thường vụ quốc hội tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả, điều này được quy định cụ thể và đầy đủ hơn trong các nghị quyết của quốc hội quy định về quy chế hoạt động của uỷ ban thường vụ quốc hội năm 2004, (điều 25 quy định).
II, THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA QUỐC HỘI
1, Tình hình chất vấn và trả lời chất vấn từ quốc hội nhiệm kỳ khóa IX đến nay
a, Một số hạn chế, tồn tại trong hoạt động chất vấn của Quốc hội
* Về trình tự, quy trình chất vấn của Quốc hội
Nhìn chung, trình tự này cơ bản là hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại mỗi kỳ họp Quốc hội. Tuy nhiên, qua thực tiễn cũng cho thấy trình tự này đang bộc lộ một số hạn chế, đó là:
- Chưa có quy định cụ thể về việc quyết định thời lượng của các phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn. Trên thực tế, Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến để Quốc hội quyết định chương trình làm việc chính thức của kỳ họp. Công việc này được tiến hành ngay từ những ngày đầu của kỳ họp, nên chưa thể dự báo trước được diễn biến tình hình chất vấn để có thể trù liệu thời lượng của các phiên họp về chất vấn và trả lời chất vấn. Thông thường, việc bố trí thời gian cho hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn khoảng 2 đến 3 ngày. Tại một số kỳ họp, do có nhiều vấn đề cần làm rõ trong khi chất vấn và trả lời chất vấn, nhưng do thời lượng hạn chế, nên Quốc hội không thể đi đến cùng những vấn đề nóng bỏng mà đại biểu Quốc hội và nhân dân quan tâm.
- Chưa có quy định về việc Quốc hội xem xét, quyết định nội dung các vấn đề bức xúc, nổi cộm, cần được làm rõ trong các chất vấn của đại biểu Quốc hội. Công việc này hiện nay do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến, báo cáo Quốc hội. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Quốc hội điều khiển các phiên họp theo hướng tập trung vào những vấn đề mà Ủy ban thường vụ Quốc hội đã lựa chọn.
- Tại kỳ họp thứ Hai, Quốc hội khóa XII vừa qua, đã xuất hiện hình thức chứng minh bằng hình ảnh trong khi đại biểu Quốc hội chất vấn. Nhưng, trong các văn bản pháp luật liên quan lại chưa quy định giá trị pháp lý của hình thức này.
Những vấn đề nêu trên cần được nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học để sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan cho phù hợp với thực tiễn.
* Đối với đại biểu Quốc hội
- Các đại biểu Quốc hội nêu lên nhiều câu hỏi nhưng không phải tất cả đều đúng với nghĩa chất vấn mà chỉ là hỏi để lấy thông tin về một vấn đề nào đó, câu hỏi dài dòng, không đi vào trọng tâm câu hỏi. Bên cạnh đó là tình trạng đưa ra những câu hỏi gộp nhiều vấn đề lại với nhau gây khó khăn cho người bị chất vấn trong việc phân loại câu hỏi để trả lời.
- Đại biểu Quốc hội có một nguồn thông tin đa chiều như: các đại biểu tự nghiên cứu, ý kiến của cử tri, kiến nghị, khiếu nại của công dân, những thông tin từ báo chí... nhưng đại biểu Quốc hội vẫn chưa xử lí thông tin để có hiệu quả nên việc lựa chọn vấn đề cần chất vấn còn mang tính cảm quan, cá nhân, chưa tập trung vào những vấn đề quan trọng được dư luận quan tâm, chất lượng câu hỏi còn hạn chế, chưa đúng tầm.
- Một số đại biểu tuy nắm được và hiểu rõ nhiều vấn đề nóng của đời sống xã hội, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của cử tri, của nhân dân nhưng lại có biểu hiện né tránh, chưa tích cực trong việc thực hiện quyền chất vấn.
* Đối với người có trách nhiệm trả lời chất vấn
- Một số người trả lời chất vấn khi trả lời còn nặng về giải trình vấn đề nhưng lại né tránh trách nhiệm giải quyết hoặc đưa ra biện pháp khắc phục. Nội dung trả lời còn chung chung, dài dòng chưa đúng trọng tâm chất vấn của đại biểu Quốc hội, đôi khi chưa thừa nhận những vấn đề chưa đúng, chưa tiếp thu với thái độ cầu thị, còn đổ lỗi cho những khó khăn của Bộ, ngành mình.
- Thời gian trả lời chất vấn còn kéo dài nhất là đối với những chất vấn của đại biểu Quốc hội giữa hai kì họp. Tùy theo pháp luật thì vấn đề đó có thể được trả lời tại kì họp sau, nhưng như vậy sẽ làm mất tính thời sự của vấn đề được chất vấn.
- Chưa có quy định về việc đánh giá, kết luận đối với việc trả lời chất vấn của người có trách nhiệm trước Quốc hội. Trên thực tế, sau khi kết thúc phần trả lời chất vấn, Chủ tịch Quốc hội thường tóm tắt và nêu những vấn đề cần lưu ý. Vì vậy, trách nhiệm của người trả lời chất vấn chưa được xác định rõ, đặc biệt là quá trình xử lý những vấn đề “hậu chất vấn”.
b, Những kết quả đạt được của hoạt động chất vấn
Thời gian từ nhiệm kì Quốc hội khóa IX đến nay là khoảng thời gian Nhà nước ta tập trung đẩy mạnh quá trình hội nhập, thúc đẩy sự phát triển cảu nền kinh tế quốc dâ. Cùng với quá trình phát triển đó, Quốc hội phải xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, song Quốc hội cũng như các đại biểu Quốc hội đã rất nỗ lực trong việc nâng cao chất lượng của hoạt động chất vấn, thể hiện tinh thần quyết tâm, ý thức, trách nhiệm của Quốc hội, đại biểu Quốc hội trước công tác giám sát đối với các vấn đề liên quan tới lợi ích của nhân dân, tới sự phát triển chung của đất nước. Và trên thực tế, hoạt động chất vấn của quốc hội đã có nhiều sự thay đổi đáng kể đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình phát triển và đi lên của đất nước. Mặc dù còn nhiều tồn tại và hạn chế nhưng chúng đã được dần khắc phục và sửa đổi trong quá trình hoạt động của quốc hội. Cụ thể:
Nội dung các vấn đề chất vấn và trả lời chất vấn đã đề cập đến các thời sự nóng hổi, bức xúc, phản ảnh đúng tâm tư nguyện vọng của cử tri, nhân dân, vừa mang tính cụ thể vừa bao quát mang tầm quốc gia.
Không khí chất vấn và trả lời chất vấn đã cở mở hơn và thực sự dân chủ, thẳng thắn, xây dựng và trách nhiệm. Hoạt động hỏi và trả lời nhìn chung đã vào đúng trọng tâm, ngắn gọn hơn, có tranh luận khá liên tục, sôi nổi. Qua đó một số vấn đề lớn cơ bản đã được làm rõ thêm ở nhiều góc độ, giúp mọi người hiểu sâu hơn về thực chất, nguyên nhân của vấn đề, thấy rõ hơn trách nhiệm của người được chất vấn và cả người chất vấn.
Các đại biểu Quốc hội đã nắm bắt sát thực tiễn, lắng nghe kiến nghị của cử tri và nghiên cứu khá sâu để nêu những câu hỏi sắc sảo và theo sát các vấn đề thảo luận để tranh luận, trao đổi đến cùng. Nhiều vị Bộ trưởng, trưởng ngành đã chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng để trả lời một cách nghiêm túc, chân thành, thẳng thắn nhận trách nhiệm không né tránh, đùn đẩy.
Kỹ năng chất vấn và trả lời chất vấn cũng có bước được nâng lên, hầu hết đều không đọc văn bản, hỏi và trả lời đều tập trung hơn theo một số nhóm vấn đề đã được lựa chọn. Tính trao đổi, đối thoại có nhiều tiến bộ hơn, chất vấn theo nhóm vấn đề rõ nét hơn, bước đầu khắc phục được tình trạng tản mạn, dàn trải. Việc báo cáo tình hình giải quyết kiến nghị của cử tri là một nét mới của kỳ họp này, góp phần gắn kết, củng cố hơn nữa mối liên hệ của hoạt động Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội với cử tri và nhân dân cả nước.
Đặc biệt tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XII, trong ngày 12,13 và 14-6-2009 có Báo cáo của Ban Dân nguyện về tình hình giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri giữa hai kỳ họp Quốc hội. Báo cáo giúp đại biểu theo dõi được những cam kết, việc thực hiện cam kết của các bộ trưởng, Chính phủ đối với Quốc hội, với nhân dân. Báo cáo được trình bày trực tiếp trên hội trường, công khai, cử tri cả nước biết được những việc mà bộ trưởng đã làm, các bộ đã giải quyết… Đây là một cải tiến. Lần đầu xuất hiện tại Quốc hội có báo cáo giám sát hậu chất vấn, phản ánh tính hiệu quả của chất vấn.
Hoạt động của Quốc hội cũng như các đại b