Đề tài Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

Hôn nhân và gia đình là một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật việt nam và ngày càng có một vai trò tích cực. cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự du nhập của những giá trị văn hóa mang tính quốc tế nên các mối quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình ở Việt Nam cũng có những biến chuyển để trở nên phù hợp. Điều này đòi hỏi pháp luật cần phải có nhưng điều chỉnh hợp lý trên cơ sở đời sống thực tiễn. Đề cập đến Luật hôn nhân và gia đình, phải kể đến nội dung “chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, vì đây là một vấn đề mang tính thời sự cao trong Điều kiện nền kinh tế nước ta có sự hội nhập mạnh mẽ với quốc tế và các quy định pháp luật liên quan đến tài sản có ý nghĩa vô cùng to lớn, thiết thực.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1984 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Đặt vấn đề Hôn nhân và gia đình là một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật việt nam và ngày càng có một vai trò tích cực. cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự du nhập của những giá trị văn hóa mang tính quốc tế nên các mối quan hệ trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình ở Việt Nam cũng có những biến chuyển để trở nên phù hợp. Điều này đòi hỏi pháp luật cần phải có nhưng điều chỉnh hợp lý trên cơ sở đời sống thực tiễn. Đề cập đến Luật hôn nhân và gia đình, phải kể đến nội dung “chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”, vì đây là một vấn đề mang tính thời sự cao trong Điều kiện nền kinh tế nước ta có sự hội nhập mạnh mẽ với quốc tế và các quy định pháp luật liên quan đến tài sản có ý nghĩa vô cùng to lớn, thiết thực. II. Giải quyết vấn đề. 1. Tài sản chung của vợ chồng. Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, việc xác định tài sản chung của vợ chồng phải dựa vào nguồn gốc phát sinh tài sản. Cụ thể, tài sản cung của vợ chồng bao gồm những tài sản sau: - Tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thời kỳ hôn nhân. - Thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể là: tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng số mà vợ, chồng có được hoặc tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 như: Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu (Điều 239); xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chon giấu, bị chìm đắm được tìm thấy (Điều 240); xác lập quyền sở hữu đối với vật do người khác đánh rơi, bỏ quên (Điều 241); xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc (Điều 242); xác lập quyền sở hữu đối với gia gia cầm bị thất lạc (Điều 243); xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước (Điều 244). - Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng thu nhập nói trên. - Tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung hoặc thừa kế chung. - Tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc những tài sản mà vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hay được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ chồng đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung hoặc theo pháp luật quy định là tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất có thể phân chia. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung. Do vậy, bình thường không thể xác định được phần tài sản nào là của vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ khi nào có sự phân chia tài sản chung vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của từng người trong khối tài sản chung đó. xuất phát từ tính chất của quan hệ hôn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung công sức trong việc tạo nên khối tài sản nhằm xây dựng gia đình, bảo đảm cho gia đình thực hiện tốt các chức năng xã hội của nó, pháp luật quy định tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng chỉ căn cứ vào nguồn gốc, thời điểm phát sinh tài sản mà không căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi người vào việc tạo dựng và phát triển khối tài sản chung đó. Có thể do điều kiện sức khỏe, đặc điểm công việc và nghề nghiệp nên sự đóng góp công sức của vợ chồng vào việc xây dựng khối tài sản chung không bằng nhau, nhưng quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng nhau. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do công sức của cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra, có thể chỉ do vợ hoặc chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản thuộc sỏ hữu chung hợp nhất của vợ chồng do vợ, chồng làm ra bằng công sức của mỗi người từ khi họ kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt và những tài sản khác do vợ chồng thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Đối với tài sản chung của vợ chồng thì vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. “Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” (Khoản 2, Điều 219 Bộ luật dân sự 2005). “Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.” (khoản 1, Điều 28, Luật hôn nhân và gia đình 2000). quyền bình đẳng của vợ chồng đối với khối tài sản chung thể hiện trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư, kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận (Điều 28, Luật hôn nhân và gia đình). Đối với những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị không lớn hoặc để phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình thì chỉ cần một bên vợ hoặc chồng thực hiện hoặc đương nhiên coi là có sự đồng ý của bên kia. Trong trường hợp vì một lý do nào đó mà chỉ có một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hang ngày của gia đình thì bên kia phải chịu trách nhiệm liên đới (Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình 2000). Quy định này khẳng định quyền tự chủ của vợ, chồng trong việc thực hiện các giao dịch dân sự nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình cũng chính là nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, đồng thời cũng khẳng định trách nhiệm của bên kia đối với các hành vi dân sự hợp pháp do vợ hoặc chồng mình thực hiện vì lợi ích chính đáng của gia đình. vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng tài sản chung. Vợ, chồng sử dụng tài sản chung của vợ chồng đương nhiên được coi có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng. tài sản chung của vợ chồng được chi dung để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng (Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình). Do vậy, trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung không cần căn cứ vào công sức đóng góp của vợ, chồng. trong những trường hợp vì lí do chính đáng và hoàn cảnh riêng của từng gia đình mà có thể vợ hoặc chồng không lao động trực tiếp tạo ra tài sản mà chỉ lao động trong gia đình như chăm sóc con, làm nội trợ…thì quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng với người kia. Điều đó có nghĩa là lao động của vợ chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập (Điểm a, Khoản 2, Điều 95 Luật hôn nhân gia đình). trường hợp vợ chồng sống cách xa nhau vì lí do chính đáng không ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ của họ đối với tài sản chung hợp nhất. 2. Điều kiện để chia di sản chung của vợ chồng Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, Luật HN&GĐ quy định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng. Đó là: chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Điều kiện để người vợ, chồng được chia tài sản với tư cách là chia tài sản chung vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình là hôn nhân giữa họ được pháp luật công nhận. Hiện nay, pháp luật nước ta công nhận hôn nhân hợp pháp và hôn nhân thực tế. Hôn nhân hợp pháp là hôn nhân có Giấy chứng nhận đăng kí kết hôn, việc kết hôn phải đáp ứng được các điều kiện kết hôn và các thủ tục kết hôn theo đúng quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành. Hôn nhân thực tế được ghi nhận tại khoản 3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “3. Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau: a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;  b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.” Theo đó, hôn nhân thực tế là những trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 – ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực, mà không có Giấy đăng kí kết hôn. Các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2000 thì bắt buộc phải đăng kí kết hôn chậm nhất là hai năm kể từ ngày luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, tức là chậm nhất đến ngày 01/01/2003. Sau đó mà không đăng kí kết hôn thì họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng khác mà không có giấy đăng kí kết hôn thì hoàn toàn không được pháp luật thừa nhận là hôn nhân. Tóm lại, vợ, chồng nếu muốn được chia tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì phải đảm bảo được điều kiện ở trên, tức là hôn nhân của họ phải được pháp luật công nhận. 3. quy định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình 1986 và Luật hôn nhân gia đình 2000 so với Luật hôn nhân gia đình năm 1959. Thực tế đã có trường hợp vợ chồng không muốn ly hôn mà chỉ yêu cầu chia tài sản chung để ở riêng hoặc vì lí do nào đó mà vợ, chồng lại muốn chia tài sản chung trong khi vẫn chung sống với nhau. Để đáp ứng nhu cầu thực tế đó, Luật hôn nhân gia đình đã quy định việc chia tài sản chung khi hôn nhân đang tồn tại giúp cho các tòa án có cơ sở pháp lý để xét xử khi có yêu cầu của vợ chồng. khoản 1, Điều 29 quy định: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết.” Theo quy định trên thì chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại được tiến hành trong các trường hợp sau: - Trường hợp vợ, chồng tiến hành đầu tư kinh doanh riêng: Xuất phát từ việc tôn trọng quyền tự do kinh doanh của cá nhân, nếu một trong hai vợ chồng muốn đầu tư kinh doanh riêng thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho vợ, chồng có tài sản riêng làm vốn đầu tư kinh doanh. mặt khác, quy định này còn nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình, bảo đảm cuộc sống ổn định của các thành viên trong gia đình tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động đầu tư kinh doanh gây ra. Trong cơ chế kinh tế như hiện nay, quy định này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vừa cho phép chủ thể được tự chủ, tự quyết trong làm ăn buôn bán, vừa đảm bảo được sự ổn định trong đời sống gia đình. - Trường hợp vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng: nếu vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ dân sự thì vợ chồng có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình. - Trường hợp có lý do chính đáng khác: Việc xác định có lý do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi còn hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi ích của gia đình, lợi ích của vợ chồng hoặc của người thứ ba. Vì vậy, lí do chính đáng khác để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại tùy từng trường hợp có khác nhau. Bên cạnh đó, Luật hôn nhân gia đình 2000 cũng quy định hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân tại Điều 30 như sau: “Điều 30. Hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung vợ chồng.” Theo quy định này thì vợ chồng hoàn toàn có quyền đối với các tài sản, các khoản lợi có được từ phần tài sản đã chia thuộc về mình, các tài sản phát sinh vì vậy không bị sáp nhập vào khối tài sản chung vợ chồng. 4. Ưu điểm, những điểm hạn chế và hướng hoàn thiện các quy định về chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. a. Những ưu điểm. - Tôn trọng quyền tự do định đoạt, tự do thỏa thuận tài sản của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân. Theo đó, các bên có quyền tự định đoạt đối với các tài sản của mình trong trường hợp không muốn ràng buộc khối tài sản đó với quan hệ hôn nhân. Quy định này cho phép các bên trong hôn nhân có sự chủ động, toàn quyền trong việc làm ăn, kinh doanh của mình. - Quy định này giúp chủ thể trong quan hệ hôn nhân bảo vệ được khối tài sản của mình trong trường hợp chủ thể còn lại của quan hệ hôn nhân có những hành vi gây tổn hại đến khối tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân hoặc giữa hai bên phát sinh những mâu thuẫn nghiêm trọng về tài sản – nhưng các chủ thể không muốn ly hôn. - Mặt khác, các quy định này bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba. Đây là trường hợp bên thứ ba có tranh chấp về tài sản với một trong hai bên chủ thể trong quan hệ hôn nhân. Khi đó, chủ thể trong quan hệ hôn nhân có quyền sử dụng tài sản được chia trong thời kỳ hôn nhân để giải quyết nghĩa vụ dân sự của mình. b. Những điểm hạn chế và hướng hoàn thiện. - Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000), là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng qui định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào? Theo chúng tôi, pháp luật cần qui định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người có quyền sẽ không được Toà án công nhận, nếu việc chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ. - Luật chưa dự liệu được trường hợp sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, một thời gian sau vợ chồng mới có yêu cầu ly hôn (hoặc một bên vợ, chồng chết trước) thì vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng có đặt ra nữa hay không? Vì xuất phát từ “thời kỳ hôn nhân”, một số trường hợp sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng vẫn cùng chung sống và gánh vác chung công việc gia đình, nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục các con…vẫn có thể có căn cứ phát sinh tài sản chung giữa vợ chồng (vợ chồng được tặng choc hung, được thừa kế chung…). - Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ qui định, vợ, chồng có thể yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu không có hoặc không thoả thuận được. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa qui định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh. Trước đây, Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 đã qui định: “Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợchồng theo qui định ở Điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”. Trên cơ sở kế thừa qui định trên của Luật HN&GĐ năm 1986, theo chúng tôi cần thiết phải qui định một giải pháp như sau: Khi chia tài sản chung, Toà án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyếtđịnh phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn qui định tại Điều 95 của Luật HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ởvà quyền sử dụng đất thì áp dụng các qui định tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ. - Qui định trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản mà không qui định trách nhiệm của họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung là một qui định quá “mở”. Giả sử, ngay sau khi kết hôn với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng có thoả thuận toàn bộ tài sản chung được chia, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi đó lợi ích gia đình được đặt ở vị trí nào? Nếu thoả thuận này được thực hiện thì quan hệ hôn nhân chỉ còn tồn tại về mặt nhân thân, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng đã được dân sự hóa, bản chất của hôn nhân XHCN vì thế không được thực hiện. Theo chúng tôi, để phát huy được mục đích, ý nghĩa của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần bổ sung vào khoản 1 Điều 6 Nghị định số 70 một nội dung bắt buộc trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng là: Tài sản bảo đảm cho các nhu cầu chung của gia đình. Ngoài ra cũng cần qui định cụ thể: Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của gia đình, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.Toà án quyết định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các bên hoặc quyết định không chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không chia được sử dụng cho nhu cầu của gia đình. - Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70 qui định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ lại không qui định ai là người có thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thoả thuận này vi phạm các điều kiện được qui định tại Điều 29 Luật HN&GĐ hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến việc trông nom, nuôi dưõng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Mặt khác, Luật HN&GĐ cũng chưa qui định hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thoả thuận chia tài sản chung. Theo chúng tôi, cần qui định rõ: Trong trường hợp thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị Toà án tuyên bốvô hiệu, chế độ tài sản chung của vợ chồng được khôi phục lại tình trạng trước khi có thoả thuận chia tài sản chung. - Theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70 trong trường hợp
Luận văn liên quan