Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế, được ưu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và ASEAN là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định, đang trở thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam bảo vệ vững chắc tổ quốc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Những biến đổi to lớn trong nước và thế giới trong những năm (1980 - 1990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đưa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi mới chính sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ được các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam.
Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một thế giới mới đầy biến động đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với xu thế thời đại. Nên đã thu được những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế, đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định tư duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
76 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 9870 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986-2004), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế, được ưu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và ASEAN là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định, đang trở thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam bảo vệ vững chắc tổ quốc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Những biến đổi to lớn trong nước và thế giới trong những năm (1980 - 1990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đưa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi mới chính sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ được các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam.
Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một thế giới mới đầy biến động đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với xu thế thời đại. Nên đã thu được những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế, đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định tư duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối đối ngoại đổi mới được công bố tại diễn đàn Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch định và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng. Chính sách đối ngoại của Đảng thời kỳ 1986 - 2004 thể hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam trong lịch sử và được nâng lên tầm cao mới vì vậy tôi chọn đề tài "Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2004)" nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn sáng tạo của Đảng sau gần 20 năm đổi mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cập nhật những vấn đề lý luận đặt ra hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2004) trở thành chủ đề hấp dẫn nhiều giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên cho đến nay những công trình chuyên khảo, luận văn về vấn đề này hầu như chưa có.
Hiện tại có một số bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng - Nhà nước, Bộ ngoại giao, Cục đối ngoại, Bộ quốc phòng, Viện quan hệ quốc tế đề cập đến vấn đề này gồm những bài sau đây:
“Nền ngoại giao đổi mới” của Thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn báo quan hệ quốc tế đầu xuân 1994.
"Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" và "Việt Nam trên đường triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng mới" của Nguyễn Mạnh Cầm Uỷ viên Bộ chính trị, Bộ trưởng Bộ ngoại giao, trưởng ban chỉ đạo Nhà nước về biển Đông và các Hải đảo.
"Tiến tới xây dựng lý luận ngoại giao Việt Nam" của Đinh Nho Liêm nhân kỷ niệm 48 năm ngày thành lập nước Việt Nam.
"Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VIII" của Vũ Khoan thứ trưởng Bộ ngoại giao đăng trong tạp chí quốc tế.
“Cục diện thế giới, vận nước” của thứ trưởng Bộ ngoại giao Trần Quang Cơ, đăng trong tạp chí quan hệ quốc tế 1 - 1992 và "Thế giới sau chiến tranh lạnh", "quan hệ Việt Nam và các nước Châu Á - Thái Bình Dương" tham luận tại Hội nghị về những thách thức đối với công cuộc tái thiết của Việt Nam và các vấn đề trong nước và quốc tế do trung tâm Đông - Tây tổ chức tại Mỹ từ ngày 21 - 22/1992.
"Hãy nhìn quan hệ Việt Mỹ" của thứ trưởng ngoại giao Lê Mai phát biểu trước hội đồng đối ngoại Mỹ tại NewYord 7/9/1990.
"Dân tộc, thời đại, thời cơ và thách thức" của Trần Quang Cơ trả lời Tạp chí thông tin lý luận 1/1991.
Những bài trong hội thảo khoa học 50 năm ngoại giao Việt Nam 8/1925 như "kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong thời kỳ đổi mới" của Vũ Xuân Vinh cục trưởng cục đối ngoại Bộ Quốc phòng.
"suy nghĩ về chính sách của ta với các nước ASEAN và đối với Mỹ " của Trịnh Xuân Lãng đại sự vụ trưởng - Trưởng phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp Quốc.
"Sáng tạo ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh" của Nguyễn Song Tùng phó ban đối ngoại Trung ương.
"Ngoại giao nhân dân trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và hiện nay" của Nguyễn Quang Tạo, chủ tịch liên hiệp các Hội hữu nghị Việt Nam với các nước
Nhìn chung các bài nói, các bài viết nêu lên trên đã trình bày những nét cơ bản, đặc trưng sự biến động trong nước và quốc tế. Những trở ngại trong quan hệ quốc tế hiện tại, quan hệ Việt Nam với một số nước trong cộng đồng thế giới, đặc biệt là chính sách đối ngoại của Việt Nam đã có tác dụng trong tiến trình thúc đẩy ổn định hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển với cộng đồng quốc tế và trình bày rõ vấn đề đối ngoại, hòa bình, hữu nghị của Việt Nam với các nước trên thế giới.
Ngoài những bài viết của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng - Nhà nước là bài viết của các nhà nghiên cứu trên một số tạp chí và một số đề tài khoa học có sự nghiên cứu phối hợp của các cơ quan như:
"Chính sách của Mỹ và Trung Quốc đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của Viện Quan hệ Quốc tế và Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 1995 - 1996.
"Chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam và quan hệ Việt Mỹ" từ 1975 đến nay của Hồ Xuân Đệ Bộ Ngoại giao nói tại Viện Lịch sử Đảng Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh 1/1997.
"Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay" của Viện Quốc tế và Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 6/1993.
"Tình hình Campuchia và triển vọng cả Đông Nam Á" của Thu Nga đăng trong Tạp chí Cộng sản 11/1999.
"Lịch sử thế giới và việc chúng ta muốn làm bạn với tất cả các nước" của Nguyễn Quốc Hùng nghiên cứu lịch sử Đảng 5/1991.
"Chính sách đa dạng hóa" của Nguyễn Ngọc Trường đăng trong tuần báo quốc tế 19/5/1994.
"Thử nhìn lại chặng đường ngoại giao Việt Nam từ 1975" của Thu Nga 5/1994 v.v…
Nhìn chung các tác giả, các tổng quan của đề tài đã từ nhiều cách tiếp cận khác, đã chỉ rõ những chuyển biến của tình hình thế giới. Chính sách đối ngoại của các quốc gia trước những biến động có tính bước ngoặt lịch sử, đồng thời chỉ rõ những đặc trưng tính chất toàn cầu đã và đang tác động đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam.
Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2004), một cách có hệ thống cả về đường lối và kết quả thực hiện một cách toàn diện thì chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến thời điểm này.
3. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tác giả dựa trên các nguồn tư liệu chính sau đây:
- Một số sách kinh điển của chủ nghĩa Mác-lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh và một số sách lý luận của các nhà lãnh đạo Đảng - Nhà nước Việt Nam.
- Văn kiện, Nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đặc biệt chú trọng khai thác các văn kiện nghị quyết của Trung Ương và Bộ Chính trị giữa 4 nhiệm kỳ Đại hội VI - VII - VIII - IX (nhất là Nghị quyết lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI 27/3/1990, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã ký) với một số sách, bài nói, bài viết phối hợp nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
- Một số văn bản pháp luật như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987; Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam 1988; Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.
- Kế thừa những tư liệu được công bố qua các công trình của một số tác giả đã công bố. Ngoài ra chú ý khai thác từ nguồn tư liệu của thông tấn xã Việt Nam … Viết về ngoại giao Việt Nam, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội một số nước Đông Nam Á, các nước láng giềng, âm mưu của Mỹ đối với Đông Dương quan hệ Việt - Mỹ đặc biệt là tình hình các nước xã hội chủ nghĩa từ sau khi sự kiện Liên Xô sụp đổ.
* Phương pháp nghiên cứu
Theo phương pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và kết hợp chặt chẽ các phương pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật những thắng lợi trong đường lối chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm qua.
4. Mục đích và nhiệm vụ của khoá luận
- Khoá luận có mục đích:
Thông qua quá trình xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập với cộng đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
- Từ mục đích đó khoá luận có nhiệm vụ:
+ Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo đường lối đổi mới
+ Trình bày các giai đoạn phát triển của đường lối đối ngoại đổi mới, cái mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi mới.
+ Thông qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ trương "độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá" quan hệ quốc tế là quyết sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bước đầu nêu lên những kinh nghiệm thực hiện chính sách đối ngoại từ năm 1986 - 2004.
5. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới những vấn đề sau.
- Thời gian và không gian khoá luận đề cập là từ năm (1986 - 2004) ở Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nước và đáp ứng xu thế thời đại.
- Nội dung: Thông qua những phân tích biến chuyển của tình hình trong nước, thế giới, khái quát có hệ thống sự chuyển biến, sự phát triển chính sách đối ngoại của Đảng - Nhà nước tiến hành xây dựng kết hợp bảo vệ chủ quyền quốc gia và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trong thời kỳ mới.
6. Đóng góp của khoá luận
- Trình bày hệ thống cơ sở hình thành và nội dung đường lối chính sách đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới.
- Khẳng định vai trò, tác dụng của chính sách đối ngoại với công cuộc đổi mới trên toàn diện đời sống, kinh tế chính trị, văn hoá xã hội và quan hệ đa dạng hoá, đa phương hoá của nước ta với các nước trong khu vực và thế giới.
- Một số bài học kinh nghiệm chung nhất hoạch định đường lối chính sách đối ngoại của Đảng, góp thêm tiếng nói với việc nghiên cứu điều chỉnh trong hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận gồm ba chương:
Chương I: Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan của đất nước và xu thế chung của thế giới
Chương II: Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mở rộng các quan hệ đối ngoại
Chương III: Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới
CHƯƠNG I
MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
I. NỀN TẢNG CỦA VIỆC MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUÔC TẾ
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách của mọi quốc gia, dân tộc. Mục tiêu của học thuyết là “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế. Giai cấp công nhân sẽ không tự giải phóng mình nếu không giải phóng toàn xã hội.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đấu tranh chính trị Lênin dạy rằng đường lối đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa phải nhằm "thiết lập những quan hệ giúp cho tất cả các dân tộc bị áp bức có thể gạt bỏ được các đế quốc chủ nghĩa"(1) và tập hợp được những điều kiện thuận lợi nhất cho "việc phát triển và củng cố cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa"(2).
Quan điểm của các nhà kinh điển chỉ ra rằng một quốc gia, một dân tộc thì tất yếu phải thực hiện chính sách đối ngoại để tập hợp bạn bè quốc tế, tranh thủ những điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của các nước nhằm xây dựng thực lực của đất nước, giành thắng lợi cho cách mạng và góp phần giải quyết những vấn đề quốc tế chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc tế, về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Hệ thống quan điểm đó được thể hiện ở những nội dung. Mục tiêu đối ngoại, tập hợp và mở rộng lực lượng, các phương châm đối ngoại, phương pháp và nghệ thuật đấu tranh ngoại giao nhằm giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, mục tiêu đối ngoại: là nhằm đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân tộc, bao gồm các quyền dân tộc cơ bản như: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đièu đó được khẳng định trong tuyên ngôn độc lập của Nhà nước Việt Nam mới: "Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cái để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy"(1). Thông qua Tuyên ngôn độc lập chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong quan hệ chính trị quốc tế. Bởi vì, chỉ những quốc gia độc lập, tự do mới có quyền quyết định đường lối đối ngoại của dân tộc mình.
Đấu tranh cho hoà bình và cùng tồn tại cho hoà bình là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Người nhấn mạnh nguyện vọng của dân tộc Việt Nam là mong muốn một nền hoà bình công lý.
Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình, trong đó phải là hoà bình thực sự, trong độc lập tự do, chứ không phải là thứ hoà bình giả hiệu.
Trong khi ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu đối ngoại của dân tộc, Hồ Chí Minh rất tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia dân tộc khác. Phát biểu nhân dịp Quốc khánh lần thứ 10 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 2/9/1955 Hồ Chí Minh tuyên bố rõ ràng: "Trong quan hệ đối với các nước khác, chính sách của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là rõ ràng và trong sáng đó là một chính sách hoà bình và quan hệ tốt… tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào công việc nội bộ, bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hoà bình" (2)
Giữ vững mục tiêu và nguyên tắc, đồng thời sẵn sàng thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng là nét độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1946, trong lời kêu gọi Liên Hợp Quốc, Người đã nêu rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà: Đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực, dành sự tiếp nhận thuận lợi, cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình, sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế, chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc, sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quan, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan.
Thứ hai, về mở rộng và tập hợp lực lượng. Xác định đối ngoại là một mặt trận, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các nước, tranh thủ mọi lực lượng và hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại.
Người cho rằng, thắng lợi ngoại giao tuỳ thuộc vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất nước. Với bên ngoài, Hồ Chí Minh chủ trương mở rộng các lực lượng theo phương châm "thêm bầu bạn, bớt kẻ thù", tránh đối đầu "không gây thù oán" với bất cứ nước nào; khai thác những điểm tương đồng và mọi khả năng có thể nhắp tập hợp lực lượng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam một cách rộng rãi và sâu sắc nhất.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được tầm quan trọng và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), chủ tịc Hồ Chí Minh (khi đó với tên gọi Nguyễn Ái Quốc) đã xác định: "Cách mệnh An Nam, cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam" (1). Đây chính là cơ sở để xác lập tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với nhân dân các nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Để thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, tập hợp các lực lượng đoàn kết với Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, muốn tăng cường đoàn kết phải thông qua đấu tranh, vì đoàn kết mà phải đấu tranh.
Thứ ba, về phương châm đối ngoại và phương pháp đấu tranh ngoại giao. Nhấn mạnh quan điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, Người nói: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc cảu chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào" (1). Điều đó có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch ra đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia và phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế của thời đại. Tuy nhiên, Người cũng nhấn mạnh rằng không thể hạn chế những hoạt động đó trong khuôn khổ dân tộc thuần tuý, bởi những hoạt động đó "có muôn ngàn sợi dây liên hệ" với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ.
Trong chỉ đạo, thực tiễn, Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải giữ vững lập trường, vững vàng, khôn khéo, chủ động, tích cực, tự lực cánh sinh; trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế, Hồ Chí Minh coi yếu tố quốc tế có ý nghĩa quan trọng cho thắng lợi của cách mạng nhưng yếu tố độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường luôn giữ vai trò quyết định mọi thắng lợi.
Người viết: "sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại… Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập(2)
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ ngoại giao phải nắm vững phương châm kiên trì về nguyên tắc, giữ vững chiến lược, nhưng mềm dẻo, linh hoạt về sách lược. Người nói: "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt" (3)
Đối ngoại là một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lược. Trong hoạt độn