1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam có nhiều đổi mới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng theo hướng CNH, HĐH là con đường đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Cơ cấu kinh tế hợp lý là đảm bảo cho sự phát triển, tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành trọng điểm mũi nhọn nhằm tạo ra tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Ngoài ra, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn dẫn tới giải phóng sức sản xuất xã hội, khai thác có hiệu quả những tiềm năng của đất nước, thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để tạo ra những công ăn việc làm cho người lao động.
Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có những bước đi mang tính đột phá để tận dụng những cơ hội, vượt qua những thách thức khi đã vào sân chơi lớn WTO, nhiệm vụ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nền kinh tế Quốc Dân được đặt lên hơn bao giờ hết, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quảng Điền, một huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, trong những năm qua thực hiện đường lối phát triển chung của cả nước, nền kinh tế có nhiều biến đổi. Đây là huyện có nhiều vùng đầm phá thuận lợi để phát triển ngành thủy sản. Ngoài ra, đây cũng là một thị trường cung cấp nhiều nông sản như: sắn, ngô, khoai lang. không chỉ đáp ứng nhu cầu trong địa bàn huyện mà còn thỏa mãn nhu cầu của toàn tỉnh, và một số vùng, tỉnh khác.
Cũng giống như toàn tỉnh, huyện Quảng Điền luôn chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai lũ lụt hàng năm. Trong thời gian đó, mọi hoạt động kinh tế bị gián đoạn, ngưng trệ. Do đó, muốn phát triển kinh tế đòi hỏi phải xác định đúng bước đi, chính sách đúng đắn. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện nhất quán đường lối phát triển chung của cả tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, nền kinh tế của huyện Quảng Điền có sự chuyển dịch theo hướng tích cực góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đề tài khá quen thuộc. Đã có rất nhiều người, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này nhưng trong tiến trình CNH, HĐH cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Do đó, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa thiên Huế trong quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đánh giá đúng thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, trên cơ sở đó đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Đề tài còn làm rõ cơ sở lý luận: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, tác dụng.của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Trên cơ sở thực trạng đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền bao gồm:
+ Những thuận lợi và kết quả đạt được.
+ Những khó khăn gặp phải.
+ Nguyên nhân và cách giải quyết những vấn đề còn tồn tại.
- Đưa ra một số giải pháp, phương hướng có tính thực thi để áp dụng vào thực tế.
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình CNH, HĐH.
- Thời gian: Từ năm 2001 đến nay.
- Không gian: huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp luận nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền trong giai đoạn CNH, HĐH, làm cơ sở cho việc phát triển kinh tế của huyện Quảng Điền trong thời gian sắp tới.
Đề tài còn là một tài liệu tham khảo có giá trị đích thực cho những ai quan tâm.
7. Kết cấu của dề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận kiến nghị, đề tài được kết cấu làm 3 chương.
63 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3804 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam có nhiều đổi mới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng theo hướng CNH, HĐH là con đường đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Cơ cấu kinh tế hợp lý là đảm bảo cho sự phát triển, tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành trọng điểm mũi nhọn nhằm tạo ra tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Ngoài ra, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn dẫn tới giải phóng sức sản xuất xã hội, khai thác có hiệu quả những tiềm năng của đất nước, thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để tạo ra những công ăn việc làm cho người lao động.
Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có những bước đi mang tính đột phá để tận dụng những cơ hội, vượt qua những thách thức khi đã vào sân chơi lớn WTO, nhiệm vụ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nền kinh tế Quốc Dân được đặt lên hơn bao giờ hết, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quảng Điền, một huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, trong những năm qua thực hiện đường lối phát triển chung của cả nước, nền kinh tế có nhiều biến đổi. Đây là huyện có nhiều vùng đầm phá thuận lợi để phát triển ngành thủy sản. Ngoài ra, đây cũng là một thị trường cung cấp nhiều nông sản như: sắn, ngô, khoai lang... không chỉ đáp ứng nhu cầu trong địa bàn huyện mà còn thỏa mãn nhu cầu của toàn tỉnh, và một số vùng, tỉnh khác.
Cũng giống như toàn tỉnh, huyện Quảng Điền luôn chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai lũ lụt hàng năm. Trong thời gian đó, mọi hoạt động kinh tế bị gián đoạn, ngưng trệ. Do đó, muốn phát triển kinh tế đòi hỏi phải xác định đúng bước đi, chính sách đúng đắn. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện nhất quán đường lối phát triển chung của cả tỉnh nói riêng và cả nước nói chung, nền kinh tế của huyện Quảng Điền có sự chuyển dịch theo hướng tích cực góp phần thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đề tài khá quen thuộc. Đã có rất nhiều người, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này nhưng trong tiến trình CNH, HĐH cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Do đó, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa thiên Huế trong quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá” làm đề tài nghiên cứu khoa học cho mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đánh giá đúng thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, trên cơ sở đó đề tài đưa ra một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Đề tài còn làm rõ cơ sở lý luận: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, tác dụng...của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Trên cơ sở thực trạng đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền bao gồm:
+ Những thuận lợi và kết quả đạt được.
+ Những khó khăn gặp phải.
+ Nguyên nhân và cách giải quyết những vấn đề còn tồn tại.
- Đưa ra một số giải pháp, phương hướng có tính thực thi để áp dụng vào thực tế.
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung: Nghiên cứu sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế trong quá trình CNH, HĐH.
- Thời gian: Từ năm 2001 đến nay.
- Không gian: huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
Phương pháp luận nghiên cứu.
Phương pháp thu thập tổng hợp.
Phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở huyện Quảng Điền trong giai đoạn CNH, HĐH, làm cơ sở cho việc phát triển kinh tế của huyện Quảng Điền trong thời gian sắp tới.
Đề tài còn là một tài liệu tham khảo có giá trị đích thực cho những ai quan tâm.
7. Kết cấu của dề tài:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận kiến nghị, đề tài được kết cấu làm 3 chương.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Những vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH, HĐH.
1.1.1. Cơ cấu kinh tế
1.1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu (hay kết cấu): Là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong hay một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và toàn thể, nó biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật, hiện tượng và biến đổi cùng với sư biến đổi của sự vật hiện tượng. Như vậy, có thể thấy có rất nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu của các khách thể và các hệ thống. [16, 269]
Cũng như vậy đối với nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ thống phức tạp thì có thể thấy rất nhiều các bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp thành chúng, tuỳ theo cách mà chung ta tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống ấy. Đặc biệt sự vận động và phát triển của nền kinh tế theo thời gian và bao hàm trong đó sự thay đổi bản thân các bộ phận cũng như sự thay đổi cơ cấu. Vì vậy có thể thấy rằng, cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. [17, 610]
Cơ cấu kinh tế là tổng thể bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau tác động lẫn nhau trong một khoảng không gian và thời gian nhất định là những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nó thể hiện đầy đủ cả hai mặt định tính và định lượng, cả hai mặt chất lượng và số lượng, phù hợp với mục tiêu xây dựng của nền kinh tế. Như vậy, mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ quyết định việc hình thành các yếu tố, các bột phận cấu thành về cả hai mặt số lượng và chất lượng, trong đó mặt chất lượng quyết định vai trò, vị trí của các yếu tố, các bộ phận, còn mặt số lượng thể hiện quan hệ tỷ lệ của các bộ phận phù hợp với mặt chất lượng đã được xác định. Nhưng khi số lượng (quan hệ tỷ lệ, tốc độ…) thay đổi sẽ tạo khả năng thay đổỉ vè chất, lúc đó sẽ dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu kinh tế. Do vậy, khi nói đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nói đến sự chuyển dịch cả về mặt chất lượng và số lượng tương ứng với chất lượng đó. Như vậy, trong cơ cấu kinh tế có thể hiện:
- Tính khách quan của cơ cấu kinh tế.
- Tính lịch sử cụ thể về thời gian, không gian và điều kiện kinh tế - xã hội.
- Tính có mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Dựa vào những đặc trưng của các bộ phận cấu thành hệ thống và cách thức quan hệ giữa chúng với nhau trong quá trình phát triển, cơ cấu nền kinh tế quốc dân bao gồm:
- Cơ cấu các thành phần kinh tế (quan hệ sản xuất trong nền kinh tế).
- Cơ cấu vùng lãnh thổ.
- Cơ cấu ngành kinh tế.
Các loại cơ cấu nói trên có mối quan hệ gắn kết, tương tác với nhau.
Thứ nhất: Cơ cấu thành phần kinh tế có cơ sở hình thành là chế độ sở hữu, bởi vậy, sự hợp lý của nó phản ánh một hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển. Với ý nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ, đồng thời nó cũng chịu tác dụng ngược trở lại của hai loại cơ cấu này. Ở nước ta hiện nay có năm thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai: Cơ cấu vùng - lãnh thổ: Là sự bố trí các ngành sản xuất và dịch vụ theo không gian cụ thể nhằm khai thác mọi ưu thế, tiềm năng to lớn của các vùng. Từ đó hình thành nên tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh kinh tế của từng vùng và toàn bộ nền kinh tế. Ở đây, xu thế chuyển dịch cơ cấu vùng, lãnh thổ là đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn, tập trung hiệu quả cao, mở rộng với quan hệ với các vùng chuyên môn khác, gắn cơ cấu kinh tế của từng khu vực với cơ cấu kinh tế của cả nước.
Thứ ba: Cơ cấu ngành kinh tế: Hình thành trên cơ sở phân chia lao động xã hội (chung, đặc thù, cá biệt) và chuyên môn hoá sản xuất còn cơ cấu lãnh thổ được hình thành dựa trên phân bố lực lượng sản xuất ở tầm tổng thể nhằm phát huy cao nhất sức mạnh kinh tế của từng vùng cũng như sức mạnh của toàn bộ nền kinh tế.
Sự phát triển nền sản xuất xã hội từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá cũng có nghĩa là xuất hiện những ngành sản xuất độc lập nhau, dựa trên những đối tượng sản xuất khác nhau. Ở đây, cơ cấu ngành kinh tế biểu hiện ra dưới các hình thức ngành lớn (ngành cấp I); nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, các phân ngành (ngành cấp II); chăn nuôi, trồng trọt…Sự vận động của các ngành kinh tế và mối quan hệ của nó vừa tuân theo những đặc điểm chung của sự phát triển sản xuất xã hội, lại vừa mang những nét đặc thù của mỗi giai đoạn và mỗi quốc gia.
Vì vậy, nghiên cứu loại cơ cấu này là nhằm tìm ra những cách thức duy trì tính tỷ lệ hợp lý của chúng ta và những lĩnh vực cần ưu tiên tập trung các nguồn lực có hạn của quốc gia trong mỗi thời kỳ thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ có thể coi là hai mặt của một thể thống nhất đều phản ánh phân công lao động xã hội, cơ cấu ngành thể hiện mình ở trong không gian lãnh thổ cụ thể còn cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất với cơ cấu ngành. Vì vậy, nó thể hiện “cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành tương quan tỷ lệ biểu hiện mối quan hệ giữa các ngành đó trong nền kinh tế quốc dân” hoặc “cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể hợp thành của nền kinh tế quốc dân trong mối quan hệ hữu cơ, tương tác lẫn nhau cả về số lượng lẫn chất lượng trong không gian, thời gian và những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định”.
1.1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế.
Đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế là luôn luôn vận động và biến đổi. Sự biến đổi ấy rất đa dạng giữa các nước, các địa phương có những điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ khác nhau. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế nước ta có xu hướng vận động và phát triển như sau:
- Sự vận động từ một nền kinh tế tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá.
- Sự vận động theo hướng tỷ trọng công nghiệp ngày càng cao, tỷ lệ nông nghiệp giảm tương đối nhưng tăng tuyệt đối, phần dịch vụ tăng nhanh hơn trong tỷ trọng sản phẩm quốc dân.
- Xu hướng biến đổi từ cơ cấu kinh tế khép kín trong phạm vi quốc gia thậm chí trong từng địa phương sang cơ cấu kinh tế mở trong phạm vi cả nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo mô hình sau:
- Vế cơ cấu ngành: chuyển từ cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp trước đây sang cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp và tiến tới cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trong những năm trước mắt, phát triển mạnh công nghiệp chế biến và kết cấu hạ tầng, chuẩn bị điều kiện để phát triển các ngành mũi nhọn và có lợi thế so sánh.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: Chuyển từ cơ cấu kinh tế quốc doanh, tập thể là chủ yếu sang cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó phải củng cố kinh tế nhà nước, phát triển mạnh kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân.
- Cơ cấu lãnh thổ: Cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần chỉ có thể đạt được chuyển dịch trên một lãnh thổ nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế lãnh thổ theo hướng phát triển toàn diện và tập trung có trọng điểm, phát triển tổng hợp kết hợp với chuyên môn hoá. Trong những năm tới, cần đầu tư phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, các khu kinh tế đặc biệt và các cực phát triển kinh tế để tạo ra sự tăng trưởng nhanh, trên cơ sở lôi cuốn, thúc đẩy sự phát triển toàn diện.
1.1.1.3. Các tiêu chí để đánh giá một cơ cấu kinh tế hợp lý.
Một là: Kinh tế - xã hội, nhất là các quy luật kinh tế như: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, những quy luật kinh tế thị trường như: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, các quy luật của tái sản xuất như: quy luật năng suất lao động, quy luật tích luỹ, phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Hai là: Đảm bảo khai thác tối đa các tiềm năng, nguồn lực của cả nước, các ngành, các địa phương, các lãnh thổ qua các phương án sản xuất kinh doanh.
Ba là: Sử dụng được ngày càng nhiều lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh giữa các nước, các vùng và khu vực. Vai trò này gắn với việc hình thành cơ cấu “kinh tế mở”. Ở góc độ vĩ mô phải gắn với việc xây dựng chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu các mặt hang trong nước sản xuất không hiệu quả gắn với phân công lao động và thương mại quốc tế.
Bốn là: Phải phản ánh được xu hướng phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng quốc tế hoá và khu vực hoá.
Năm là: Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo kết quả cuối cùng của một cơ cấu kinh tế tối ưu.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Đảng ta xác định muốn thực hiện được mục tiêu CNH, HĐH đất nước thì chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH với những định hướng cơ bản:
Một là: Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu cơ bản chi phối quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH phải đảm bảo cho nền kinh tế thị trường Việt Nam phát triển, phải xuất phát từ khả năng của nền kinh tế Việt Nam. Khả năng đó bao gồm khả năng trong nội bộ nền kinh tế và khả năng phát triển các quan hệ hợp tác quốc té đa phương, đa hình thức. Những khả năng này phải được tính toán cụ thể đối với từng ngành, từng thành phần kinh tế, từng vùng lãnh thổ qua việc xác định các chỉ tiêu về nguồn lực hiện có như: Lao động, vốn, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật. Đây là điều kiện quyết định khả năng thanh toán của nền kinh tế, là mức cầu mà nền kinh tế có thể chuyển dịch tới.
Hai là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH phải đảm bảo khai thác thế mạnh và sức mạnh tổng hợp của các ngành, các lĩnh vực kinh tế, các thành phần kinh tế và các vùng lãnh thổ, trong đó cần ưu tiên tập trung phát triển các ngành trọng điểm và mũi nhọn, các thành phần kinh tế và các trọng điểm, các khu công nghiệp kỹ thuật cao. Như vậy sẽ tạo ra sự tăng trưởng và phát triển nhanh ở các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng trọng điểm nhằm tạo thế cho kinh tế đất nước tăng trưởng và phát triển nhanh.
Ba là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi phải kết hợp tối ưu các loại quy mô kỹ thuật, công nghệ và chuyên môn hoá hợp lý trong toàn bộ nền kinh tế và trong từng ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và vùng lãnh thổ. Kinh tế Việt Nam muốn phát triển nhanh cần kết hợp chặt chẽ giữa các loại quy mô lớn, vừa, nhỏ. Trong thời gian đầu, cần phát triển mạnh các loại quy mô vừa và nhỏ, vì nó dễ thích nghi với sự thay đổi của kinh tế thị trường, phù hợp với nguồn vốn còn hạn hẹp và phát huy được hiệu quả nhanh đồng thời phải coi trọng những quy mô lớn cần thiết như các tập đoàn sản xuất lớn thì mới có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tương ứng với các loại quy mô đó cần kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật công nghệ hiện đại với kỹ thuật truyền thống, trong đó phải ưu tiên các loại kỹ thuật công nghệ hiện đại thích hợp với các ngành, lĩnh vực, thành phần kinh tế và vùng trọng điểm.
Bốn là: Cơ cấu kinh tế cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đòi hỏi phải thực hiện quan điểm kinh tế “mở” trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước, bảo đảm an ninh quốc gia và sự bền vững của môi trường.
1.1.3. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuỳ từng mục tiêu nghiên cứu và từng góc độ tiếp cận mà người ta có thể phân chia chúng thành những tổ hợp khác nhau, chẳng hạn: Những nhân tố bên trong và bên ngoài, những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp…
1.1.3.1. Các nhân tố đầu vào của sản xuất
Nhóm các nhân tố đầu vào của sản xuất gồm tập hợp các nguồn lực mà xã hội có thể huy động vào quá trình sản xuất, bao gồm các nhân tố chính là:
- Các nguồn lực tự nhiên (tài nguyên nước, đất, rừng, khoáng sản…).
Nhà kinh tế học cổ điển William Petty đã từng nói: “lao động là cha của của cải, còn đất là mẹ của nó”. Cơ cấu kinh tế của một quốc gia như thế nào đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng. Quy mô đất đai, địa hình, khí hậu, nguồn nước…là điều kiện tự nhiên của các loại hình sản xuất nông nghiệp khác nhau.
Có thể thấy rằng tài nguyên thiên nhiên là cơ sở xuất phát tự nhiên quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế trên thế giới. Ở nước ta, nông nghiệp lúa nước, mỏ than, mỏ dầu…là những cơ sở tự nhiên để phát triển một nền kinh tế mà cơ cấu bao gồm trong đó các ngành sản xuất lúa gạo, than và dầu mỏ…
Vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng, là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc hình thành cơ cấu kinh tế. Nếu ở vị trí thuận lợi, một nước hay một vùng có khả năng rất tốt để mở rộng thị trường, tiếp nhận các nguồn lực từ bên ngoài thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngược lại, nếu vị trí địa lý bất lợi thì việc thu hút đầu tư, các nguồn lực bên ngoài, phát huy các nguồn lực bên trong gặp nhiều khó khăn.
Địa hình là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế. Căn cứ vào vị trí và địa hình để bố trí ngành sản xuất trọng điểm có tác dụng lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khí hậu thuỷ văn là nguồn tài nguyên liên quan và tác nhân ảnh hưởng đến các ngành kinh tế quốc dân. Đăc biệt là sản xuất nông nghiệp, yếu tố thuỷ văn có ảnh hưởng tới mùa vụ, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, năng suất, chất lượng sản phẩm vì hiệu quả sản xuất.
- Nguồn lực con người: Nguồn lực con người khi được xem xét ở một góc độ đầu vào của quá trình sản xuất (sức lao động) từ lâu đã được coi như một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình sản xuất, ở những thời điểm nhất định, việc phân bổ nguồn lực này như thế nào có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu nguồn kinh tế. Tuy nhiên để có căn cứ cho việc quyết định phân bổ nguồn nhân lực vào những lĩnh vực sản xuất khác nhau như thế nào, những khía cạnh cần lưu ý là:
+ Quy mô nguồn nhân lực: Là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành cơ cấu nền kinh tế. Để cho các hoạt động kinh doanh đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô, trong những điều kiện về khoa học - công nghệ nhất định cần phải có một lượng lao động thích hợp.
+ Chất lượng lao động: Ngoài các tố chất về sức khoẻ, về phẩm chất và đạo đức (tính cần cù, siêng năng, yêu lao động, có trách nhiệm trước công việc và sản phẩm, có tự trọng cao về mặt xã hội, có kỷ luật trong lao động…) chất lượng lao động còn thể hiện ở trình độ tay nghề, kỹ năng lao động và kiến thức(bao gồm cả kiến thức chuyên môn và nững kiến thức xã hội cần thiết khác). Vì vậy, đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội tổng hợp lớn nhất, mặt khác đầu tư cho giáo dục là loại đầu tư trực tiếp cho sản xuất chứ không phải là đầu tư cho lĩnh vực sản xuất, vốn chỉ được xét đến sau khi đã đầu tư cho các ngành sản xuất như trong hầu hết các báo cáo kinh tế cũng như cách phân loại thống kê học.
- Nguồn vốn: Nhân tố kinh tế quan trọng luôn ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia là quy mô nguồn vốn đầu tư. Do khởi phát quá trình CNH trong điều kiện trong điều kiện một nền kinh tế nghèo nàn, hầu như dối với tất cả các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư luôn là chiếc “cổ họng hẹp” đối với quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngày nay, dưới tác động của quá trình toàn cầu hoá kinh tế với một trong những