Trước những năm 1986, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp và đã dẫn đến hậu quả là nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Một trong những biểu hiện đó là thành phần kinh tế Nhà nước với số lượng lớn các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) hoạt động bế tắc, không hiệu quả, không giữ được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế.
Từ sau năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế. Mà trong đó khâu đột phá để đổi mới nền kinh tế đất nước là xắp xếp và đổi mới quản lý DNNN. Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết vấn đề này là tiến hành cổ phần hoá (CPH) một số DNNN nhằm đa dạng hoá sở hữu, tạo điều kiện cho người góp vốn và người lao động trong doanh nghiệp CPH làm chủ thực sự, tạo động lực nâng cao tính hiệu quả của hoạt động của doanh nghiệp và giải quyết thoả đáng mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Chủ trương CPH DNNN đã được tiến hành từ đầu những năm 1990 và đang là một vấn đề có tính chất thời sự và nóng hổi của nền kinh tế nói riêng và cả xã hội hiện nay.
22 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1897 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG
I. Đặt vấn đề 1
II. Giải quyết vấn đề 2
1. Vai trò của KTNN, DNNN và thực trạng hoạt động
của hệ thống DNNN ở Việt Nam hiện nay 2
1.1. Thành phần KTNN 2
1.2. Hệ thống DNNN 4
1.3. Tính chủ đạo của KTNN, DNNN 5
1.4. Trong quá trình hoạt động, thành phần KTNN nói chung và các DNNN đã và đang bộc lộ những vấn đề 6
1.4.1. Ưu điểm của DNNN 6
1.4.2. Những tồn tại 7
2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về CPH 8
3. Về chủ trương CPH 8
3.1. Mục tiêu CPH 8
3.2. Về hình thức Công ty cổ phần 10
3.2.1. Thế nào là Công ty cổ phần 10
3.2.2. Quá trình phát triển của Công ty cổ phần 10
3.2.3. Vai trò của Công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường 11
3.3. Tiến trình CPH ở nước ta 12
3.3.1. các giai đoạn đã trải qua 12
3.3.2. Kết quả đạt được 13
3.3.3. Những thuận lợi và khó khăn trong tiến trình CPH 14
3.3.4. Nguyên nhân làm chậm tiến trình CPH và giải pháp 15
Kết luận 18
Danh mục tài liệu tham khảo 19
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước những năm 1986, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp và đã dẫn đến hậu quả là nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Một trong những biểu hiện đó là thành phần kinh tế Nhà nước với số lượng lớn các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) hoạt động bế tắc, không hiệu quả, không giữ được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế.
Từ sau năm 1986, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối đổi mới nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế. Mà trong đó khâu đột phá để đổi mới nền kinh tế đất nước là xắp xếp và đổi mới quản lý DNNN. Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết vấn đề này là tiến hành cổ phần hoá (CPH) một số DNNN nhằm đa dạng hoá sở hữu, tạo điều kiện cho người góp vốn và người lao động trong doanh nghiệp CPH làm chủ thực sự, tạo động lực nâng cao tính hiệu quả của hoạt động của doanh nghiệp và giải quyết thoả đáng mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
Chủ trương CPH DNNN đã được tiến hành từ đầu những năm 1990 và đang là một vấn đề có tính chất thời sự và nóng hổi của nền kinh tế nói riêng và cả xã hội hiện nay.
Với tư cách là một sinh viên kinh tế - cán bộ kinh tế trong tương lai, qua đề tài “Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” là một cơ hội để em nghiên cứu sâu một chính sách kinh tế quan trọng của Nhà nước, qua đó có những kiến thức thực tế và kết hợp với kiến thức còn hạn hẹp của mình để đề xuất một số giải pháp cho tiến trình CPH DNNN ở nước ta hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo PGS.TS. Phạm Quang Phan đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Vai trò của KTNN, DNNN và thực trạng hoạt động của hệ thống DNNN ở Việt Nam hiện nay.
1.1. Thành phần KTNN.
Thành phần KTNN là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu Nhà nước hoặc phần Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế.
KTNN bao gồm:
+ Các DNNN (kinh tế quốc doanh)
+ Các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước (đất đai, tài nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia...)
Như vậy, KTNN trước hết là các DNNN và doanh nghiệp cổ phần được hình thành trên cơ sở:
+ Nhà nước đầu tư xây dựng
+ Quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư bản tư nhân.
+ Góp cổ phần khống chế với các doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài ra với bản chất Nhà nước XHCN, Nhà nước xác định đất đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân hàng, tài chính... do Nhà nước nắm giữ, chi phối để điều tiết, định hướng sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nguyên tắc hoạt động của KTNN: KTNN thuộc sở hữu Nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo chủ trương của Đảng ta, KTNN cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, những cơ sở sản xuất kinh doanh thương mại, dịch vụ quan trọng, những cơ sở kinh tế phục vụ an ninh quốc phòng và vấn đề xã hội để đảm bảo những cân đối lớn ,chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường.
Một điểm đáng lưu ý và cần làm rõ trước khi ta đi tiếp các phần sau đó là vấn đề sở hữu trong KTNN. Ta cần làm rõ quan hệ sở hữu là gì? Thế nào là hình thức sở hữu Nhà nước và nội dung của nó.
Quan hệ sở hữu là nội dung của quan hệ sản xuất, sự biến đổi của quan hệ sở hữu nói riêng và quan hệ sản xuất là do sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Sở hữu Nhà nước là hình thức sở hữu mà Nhà nước là đại diện cho nhân dân sở hữu những tài nguyên, tài sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và những của cải của đất nước.
Sở hữu Nhà nước nghĩa là Nhà nước là đại diện cho chủ sở hữu, còn quyền sử dụng giao cho các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân để phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhất. Đó là sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, chủ sở hữu và chủ kinh doanh, làm cơ sở và tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình.
Các hình thức sở hữu ra đời trước hết là do những thay đổi trong tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, gắn liền với nó là lợi ích của người lao động.
Ở nước ta hiện nay, một trong những vấn đề hết sức cấp bách cần giải quyết đó là đổi mới sở hữu mà thực chất của nó là khắc phục chế độ công hữu hình thức, áp đặt, giáo điều, xoá dần tình trạng độc quyền, đơn nhất trong sở hữu về tư liệu sản xuất, hình thành đa dạng hoá các loại hình sở hữu, chuyển từ sở hữu dọc sang sở hữu ngang, hoàn thiện dần nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và cơ chế vận hành tương ứng của nó.
Biện pháp trọng tâm để đổi mới sở hữu ở nước ta đó là giải quyết sở hữu Nhà nước nhằm:
+ Tạo ra sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất nhằm phát triển lực lượng sản xuất.
+ Sở hữu cho mọi người nghĩa là tạo điều kiện cho người lao động sở hữu các yếu tố sản xuất làm cơ sở cho phân phối kết quả sản xuất, tức là thực hiện lợi ích kinh tế bằng sở hữu.
+ Xác định chủ đích thực của từng đối tượng sở hữu.
Biện pháp để đổi mới sở hữu: về mặt phương pháp luận, có 2 biện pháp.
+ Giữ sở hữu Nhà nước
+ Chuyển sở hữu Nhà nước thành các hình thức sở hữu khác.
Ở biện pháp thứ nhất: giữ lại sở hữu Nhà nước, thực chất đó là giữ lại các DNNN. Như vậy ta có thể thấy, các DNNN giữ một vai trò rất quan trọng đổi mới sở hữu ở nước ta hiện nay. Sau đây chúng ta sẽ xem xét về hệ thống DNNN của nước ta.
1.2. Hệ thống DNNN
DNNN là các đơn vị tổ chức kinh tế thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh, thuộc sở hữu của Nhà nước.
DNNN có 2 loại cơ bản.
+ DNNN công ích do Nhà nước đầu tư và xây dựng: là những doanh nghiệp được tạo ra nhằm đảm bảo những cân đối lớn trong nền kinh tế và những mục tiêu xã hội, tồn tại không phải vì lợi nhuận, với lượng vốn lớn, lãi thấp, thu hồi lâu mà tư nhân không muốn đầu tư hoặc không được đầu tư. Ví dụ trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất và xã hội, những hàng hoá công cộng khác. Vì thế, tính bao cấp của Nhà nước ở những mức độ nhất định là không tránh khỏi.
+ DNNN còn lại tồn tại trong môi trường sản xuất kinh doanh theo luật, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác với mục tiêu là lợi nhuận. Trong quá trình hoạt động, cạnh tranh, từng doanh nghiệp hoặc tự khẳng định hoặc tự phủ định mình theo quy luật cạnh tranh trên thị trường.
1.3. Tính chủ đạo của KTNN nói chung và của DNNN đối với nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Xuất phát từ những vai trò sau:
Thứ nhất, vai trò mở đường của KTNN, thể hiện qua:
Xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo, mở rộng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và cuộc sống như: giao thông (đường sá, cầu cống...) ,điện, thông tin liên lạc, nước sạch, các công trình công cộng khác phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tập trung nghiên cứu để xây dựng và cải tạo, bổ sung, giúp đỡ các doanh nghiệp của các TPKT khác sản xuất những hàng hoá và các ngành kinh tế mũi nhọn mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu cầu, đem lại thu nhập lớn, thu hút được lao động, tạo đà cho phát triển kinh tế và hội nhập khu vực và thế giới.
Nhà nước tạo điều kiện tối đa để khu vực KTNN và thành phần KTNN đi đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong việc nghiên cứu, chế tạo, triển khai, nhập, chuyển giao các loại công nghệ nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, có khả năng giải quyết việc làm, bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời xoá bỏ dần tình trạng lạc hậu của nền kinh tế, tạo ra năng suất lao động cao, làm cơ sở nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế.
Là chủ thể đại diện sở hữu phần lớn tài sản quốc gia DNNN và thành phần KTNN đóng vai trò quan trọng trong việc thăm dò, khai thác, bảo quản, phát triển và sở hữu có hiệu quả tài nguyên và các tiềm năng của đất nước.
Thành phần KTNN nói chung và các DNNN mở đường, đi đầu trong đổi mới trình độ và năng lực quản lý kinh tế với trang thiết bị, công cụ quản lý kinh tế hiện đại, hiệu quả và chế độ phân phối hợp lý.
Thành phần KTNN cũng là người tiên phong, làm gương cho các thành phần kinh tế khác trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu nhập cho ngân sách quốc gia, tạo đầu tư cho kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, KTNN, DNNN bằng vai trò mở đường, hỗ trợ của mình thúc đẩy hình thành các trung tâm kỹ thụât văn hoá - xã hội mới tiên tiến. Tạo điều kiện thuận lợi để phân bố lại dân cư và hình thành các trung tâm dịch vụ hiện đại, thuận tiện để để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Thứ hai, đóng vai trò lực lượng vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho nền kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo những cân đối lớn của nền kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, kịp thời lấp đi những khoảng trống của kinh tế thị trường.
Ngoài ra nó còn thể hiện ở vai trò :
Tạo nguồn lực nuôi bộ máy Nhà nước
Tạo điều kiện cho việc xây dựng chế độ xã hội mới.
1.4. Trong quá trình hoạt động của mình, thành phần KTNN nói chung và các DNNN dã và đang bộc lộ những vấn đề sau:
1.4.1. Một mặt, các DNNN được coi là cái xương sống của nền kinh tế quốc gia, nó có các ưu điểm sau:
Là công cụ phát triển nhanh nền kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế, xã hội và chống đình đốn.
DNNN rất dễ thành lập, vốn của DNNN có thể lên tới hàng nhiều chục tỷ đồng.
DNNN là lực lượng tạo ra nguồn thu lớn nhất cho ngân sách Nhà nước.
1.4.2. Trong việc phát huy vai trò chủ đạo của DNNN, còn có những mặt tồn tại sau:
Chưa thực sự là đòn bẩy để đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định, chưa giải quyết được những vấn đề cơ bản về mặt xã hội đang đặt ra. Vai trò mở đường, hướng dẫn, giúp đỡ các thàn phần kinh tế khác và vai trò đối tác chính của DNNN trong liên doanh còn yếu, chưa tạo đủ vật chất để đảm bảo vững chắc những cân đối lớn của nền kinh tế và quản lý vĩ mô, tình trạng tham ô lãng phí, tham nhũng trong DNNN còn gia tăng.
Số lượng DNNN còn quá lớn và dàn trải, phần lớn các DNNN có quy mô nhỏ và vừa. Trong số hơn 7000 DNNN ở nước ta hiện nay có đến 25% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó 50% có vốn dưới 500 triệu, thậm chí có tỉnh, thành phố còn có một số doanh nghiệp có vốn dưới 100 triệu.
Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN chưa cao và đang giảm dần, tốc độ tăng trưởng bình quân năm của DNNN liên tục đạt 13% đến năm 1998 và năm 1999 giảm xuống còn 8 - 9%, hiệu quả sử dụng vốn giảm.
Số DNNN thua lỗ, hoà vốn còn lớn, nhất là số DNNN ở địa phương, số doanh nghiệp làm tăng nợ khó đòi, không có khả năng trả, lỗ kéo dài ngày càng nhiều, một số doanh nghiệp nhất là ở địa phương đã lâm vào tình trạng phá sản. Ttrong năm 1996, trong số 1582 doanh nghiệp trong hai tổng Công ty 90, 91 có đến 251 doanh nghiệp bị lỗ, chiếm 29%.
Mặt hàng của các DNNN đơn điệu, cơ cấu sản xuất hàng hoá không hợp lý, năng suất, chất lượng hàng hoá thấp, số doanh nghiệp vi phạm pháp luật tăng, do đó làm giảm sức cạnh tranh, khả năng tự tái đầu tư của doanh nghiệp.
Liên doanh với các chủ đầu tư nước ngoài bị thua thiệt lớn, thuận chí mất vốn vì không kiểm soát được hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp liên doanh, đặc biệt là trong khâu thu mua các các yếu tố đầu vào.
2. Chính từ thực trạng hoạt động bế tắc, kém hiệu quả của hầu hết DNNN, ngay từ đầu những năm 1990, Đảng và Nhà nước đã đề ra chính sách cổ phần hoá (CPH) DNNN.
Trong kế hoạch 10 năm từ 1991 - 2000 cũng như kế hoạch phát triển trong 5 năm 2001 - 2005, Đảng ta đã xác định: “thực hiện chủ chương CPH những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Thực hiện giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên” (trích “Văn kiện Đại hội Đảng IX”).
Như vậy, CPH DNNN là một đòi hỏi tất yếu trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta.
3. Chủ trương CPH DNNN.
Xét một cách hình thức, cổ phần hoá là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán.
3.1. Mục tiêu khi tiến hành CPH DNNN.
Mục tiêu trực tiếp.
+ Chuyển đổi sở hữu, khắc phục tình trạng không có chủ sở hữu cụ thể ở các DNNN.
Về mặt lý luận, trong các DNNN ai là chủ của sở hữu Nhà nước hoặc đại diện chủ sở hữu Nhà nước: người lao động, giám đốc hay hội đồng quản trị, thì không có ai làm chủ hoặc đại diện làm chủ cả. Tất cả họ chỉ là những người làm công ăn lương mà thôi. Thực tế họ chỉ là những “chủ” ngộ nhận, chủ không đích thực, chủ danh nghĩa, hình thức. Đơn giản là vì các nguồn vốn và tài sản là của Nhà nước, là sở hữu Nhà nước chứ không phải của họ bỏ ra. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến DNNN ở tất cả quốc gia trên thế giới thường kém hiệu quả so với các Công ty tư nhân.
Do vậy, thực hiện CPH để gắn liền trách nhiệm với lợi ích cá nhân của người lao động, người chủ Công ty sau CPH là rất cần thiết nhằm:
+ Tách người chủ sở hữu khỏi khả năng quản lý kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hoạt động trong một môi trường kinh tế cạnh tranh đầy khốc liệt như vậy, để thoả mãn mục tiêu của doanh nghiệp là lợi nhuận thì người điều hành doanh nghiệp phải là một người có năng lực điều hành, có kiến thức chuyên môn tốt, được đào tạo một cách cơ bản. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, những cổ đông tham gia công ty cổ phần là người lao động trong chính các DNNN trước CPH, các cá nhân, tổ chức bên ngoài đều không có điều kiện như vậy. Do đó trong các Công ty cổ phần người ta thường thuê một giám đốc điều hành ở bên ngoài Công ty là người mà có đủ năng lực để điều hành hoạt động của Công ty dưới sự giám sát của hội đồng quản trị.
+ Tạo điều kiện cho người lao động trở thành người chủ từ đó nâng cao tính tự giám sát, kiểm soát của doanh nghiệp cũng như nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm của Công ty.
+ Các DNNN thường bị thiếu vốn do vốn lưu động ít. Thực hiện CPH sẽ tạo vốn cho doanh nghiệp để đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Góp phần đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước.
Mục tiêu tổng quát:
+ Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường hoạt động chưa thực sự có hiệu quả, nhiều khuyết tật của nó đã và đang bộc lộ, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của kinh tế - xã hội. Nguyên nhân chủ yếu đó là do thị trường hoạt động chưa đồng bộ. Một thị trường hoạt động đồng bộ có hiệu quả là một thị trường có 3 thị trường thành phần phát triển tương ứng nhau: thị trường hàng hoá, thị trường vốn và thị trường lao động, ở nước ta, ngoài thị trường lao động còn nhiều vấn đề phải giải quyết thì thị trường vốn cũng chưa thật sự phát triển. Thực hiện chủ trương CPH, tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán là một biện pháp rất tốt để phát triển thị trường vốn, nâng cao hiệu quả cũng như hạn chế khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
+ Tập trung nguồn lực để thực hiện các mục tiêu ưu tiên của đất nước.
3.2. Về Công ty cổ phần - kết quả của việc thực hiện chủ trương CPH DNNN.
3.2.1. Thế nào là Công ty cổ phần (CTCP):
CTCP là một loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có tư cách pháp nhân và các cổ đông góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật và đối với một số cổ phần nhất định có thể được tự do mua bán trên thị trường.
3.2.2.Quá trình phát triển của hình thức CTCP.
Hình thức CTCP xuất hiện cách đây 3 - 4 trăm năm ở các nước Anh, Pháp (công ty đầu tiên là Công ty Đông Ấn ở Anh thành lập năm 1600). Đến nửa đầu thế kỷ XIX, các CTCP đã phát triển tương đối phổ biến ở các nước tư bản dưới một số hình thức nhất định và quy mô Công ty còn chưa lớn. Đến những năm cuối thể kỷ XIX, các CTCP mới phát triển mạnh, quy mô ngày càng lớn. Đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II, hình thức CTCP đã phát triển mạnh, hình thành các Công ty, các tập đoàn xuyên quốc gia với quy mô hoạt động bao trùm toàn thế giới.
3.2.3. Vai trò của CTCP trong nền kinh tế thị trường.
Các CTCP có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao trình độ của nền kinh tế thị trường. Nó có khả năng thu hút, khơi thông nguồn vốn xã hội cho đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới và không ngừng nâng cao trình độ, công nghệ của nền kinh tế.
Sự phát triển của các CTCP với việc phát hành các loại chứng khoán rộng rãi và giao dịch mua bán chứng khoán tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán, góp phần hoàn thiện, nâng cao trình độ thị trường vốn.
Sự phát triển của các CTCP còn có tác dụng hạn chế rủi ro và tránh được phá sản cho các doanh nghiệp và nhà đầu trong nền kinh tế thị trường với sự hoạt động mạnh của quy luật cạnh tranh .
Sự phát triển của các CTCP tăng cường hiệu qủa hoạt động của doanh nghiệp nhờ thu hút được trí thức chuyên môn từ chính doanh nghiệp và khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh do họ vừa là người lao động của doanh nghiệp, lại vừa là cổ đông - những người chủ sở hữu của doanh nghiệp, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ nên họ lao động có trách nhiệm hơn, có hiệu qủa hơn.
CTCP là hình thức được lựa chọn của các hãng lớn và các nhà đầu tư khi họ đầu tư ra nước ngoài. Do đó, phát triển CTCP trong nước có tác dụng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài.
Như vậy, nếu xét cả về khía cạnh lịch sử cũng như xét các vai trò của CTCP trong nền kinh tế thị trường, ta có thể thấy rằng chủ trương CPH doanh nghiệp Nhà nước thành các CPCP là hết sức đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh tế nước ta lúc này.
3.3. Tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta.
3.3.1. Nhìn chung tiến trình CPH doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta đã trải qua 2 giai đoạn.
+ Giai đoạn đầu được đánh dấu bằng quyết định số 143/HĐBT ngày 10 - 5 - 1990 của Hội đồng Bộ Trưởng (nay là Chính phủ). Đây là giai đoạn làm thí điểm nền còn thiếu kinh nghiệm. Do vậy sau 5 năm mới chỉ có 5 doanh nghiệp Nhà nước hoàn thành CPH.
+ Giai đoạn hai: (Từ 1996 đến nay) là giai đoạn CPH được tiến hành trên quy mô rộng lớn với việc ban hành hàng loạt văn bản pháp lý, đã quy định một cách tương đối đồng bộ các chính sách, trình tự, thủ tục CPH doanh nghiệp Nhà nước . Trong giai đoạn này, đặc biệt từ khi có Nghi định số 44/1998/HĐCP ngày 29 - 6 - 1998 đã giải quyết được một cách căn bản các vấn đề liên quan đến thủ tục CPH như: định giá tài sản, chính sách đối với người lao động, giảm bớt m