Đề tài Công tác Dịch vụ khách hàng trong việc tái tục hợp đồng bảo hiểm tại công ty Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội

Trong tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,Việt Nam đang từng bước mở cửa nhiều thị trường trước đây vốn chỉ được coi là sân chơi của các doanh nghiệp nhà nước.Hoà vào xu thế đó,chúng ta cũng đã sớm mở cửa thị trường bảo hiểm nhân thọ.Từ năm 2000 trở lại đây với sự góp mặt liên tiếp của các công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam thì cạnh tranh trên thị trường BHNT trở nên gay gắt và phức tạp hơn bao giờ hết.Vì vậy vấn đề tìm kiếm những khách hàng mới cũng như giữ được khách hàng cũ của các công ty bảo hiểm nhân thọ là vô cùng cần thiết. Bảo Việt nhân thọ Hà Nội –Là doanh nghiệp đầu tiên trên thị trường có khách hàng đáo hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.Năm 2001 những doanh nghiệp khác trên thị trường mới bắt đầu ổn định kinh doanh thì công ty đã có những khách hàng nhận tiền đáo hạn. Đây có thể xem như một lợi thế của công ty trong việc quảng bá hình ảnh, xây dựng lòng tin cho khách hàng.Tuy nhiên tỉ lệ tái tục hợp đồng trong những năm qua là chưa cao.Nguyên nhân có thể là do khách quan hay chủ quan nhưng công tác dịch vụ khách hàng có vai trò rất quan trọng đối với việc tái tục hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong thời gian thực tập tại phòng Dịch vụ khách hàng của BVNT Hà Nội em đã chọn đề tài: “Công tác Dịch vụ khách hàng trong việc tái tục hợp đồng bảo hiểm tại công ty Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội”

doc94 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2767 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác Dịch vụ khách hàng trong việc tái tục hợp đồng bảo hiểm tại công ty Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,Việt Nam đang từng bước mở cửa nhiều thị trường trước đây vốn chỉ được coi là sân chơi của các doanh nghiệp nhà nước.Hoà vào xu thế đó,chúng ta cũng đã sớm mở cửa thị trường bảo hiểm nhân thọ.Từ năm 2000 trở lại đây với sự góp mặt liên tiếp của các công ty bảo hiểm nhân thọ 100% vốn nước ngoài vào Việt Nam thì cạnh tranh trên thị trường BHNT trở nên gay gắt và phức tạp hơn bao giờ hết.Vì vậy vấn đề tìm kiếm những khách hàng mới cũng như giữ được khách hàng cũ của các công ty bảo hiểm nhân thọ là vô cùng cần thiết. Bảo Việt nhân thọ Hà Nội –Là doanh nghiệp đầu tiên trên thị trường có khách hàng đáo hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.Năm 2001 những doanh nghiệp khác trên thị trường mới bắt đầu ổn định kinh doanh thì công ty đã có những khách hàng nhận tiền đáo hạn. Đây có thể xem như một lợi thế của công ty trong việc quảng bá hình ảnh, xây dựng lòng tin cho khách hàng.Tuy nhiên tỉ lệ tái tục hợp đồng trong những năm qua là chưa cao.Nguyên nhân có thể là do khách quan hay chủ quan nhưng công tác dịch vụ khách hàng có vai trò rất quan trọng đối với việc tái tục hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong thời gian thực tập tại phòng Dịch vụ khách hàng của BVNT Hà Nội em đã chọn đề tài: “Công tác Dịch vụ khách hàng trong việc tái tục hợp đồng bảo hiểm tại công ty Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội” Do thời gian cũng như sự hiểu biết của bản thân còn hạn chế cả về lí luận và thực tiễn nên bài viết không tránh khỏi thiết sót.Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô giáo hướng dẫn và các anh chị trong công ty để bài viết của em được hoàn thiện.Em xin cam đoan bài viết này không sao chép,copy của người khác,nếu có em xin chịu mọi trách nhiệm. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Tô Thiên Hương và các anh chị trong công ty đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ để em hoàn thiện bài viết này. Chương1: Cơ sở lí luận về BHNT và công tác dịch vụ khách hàng trong kinh doanh bảo hiểm 1.1 Tổng quan về BHNT 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của BHNT 1.1.1.1 Trên thế giới Con người cùng các thể chế chính trị từng tồn tại trong lịch sử luôn đặt nhiệm vụ hạn chế rủi ro lên hàng đầu.Dịch vụ bảo hiểm nói chung BHNT nói riêng ra đời cũng nhằm mục đích đó. BHNT là loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất trên thế giới.BHNT xuất hiện đầu tiên ở đế quốc La Mã cổ đại.Tại đây người ta lập nên các hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên,ngoài ra hội cũng hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết.Khoảng năm 450 sau Công Nguyên, đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của BHNT bị lãng quên.Tuy nhiên các mặt và tính chất của nó thì vẫn không hề thay đổi trong suốt thời Trung Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ công và thương nghiệp.Các phường hội này đã lập nên nhiều hình thức bảo hiểm thành viên để bù đắp thiệt hại các vụ hoả hoạn, lũ lụt,trộm cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật tử vong và thậm chí là bảo hiểm tù ngục( bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào tù).Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo Phật người Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia đình xây cất nhà cửa đồng thời che chở, đùm bọc các goá phụ và trẻ nhỏ. Dịch vụ bảo hiểm hiện đại bắt nguồn từ cuối thế kỷ XVIII.Tuy nhiên HĐBH nhân thọ đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1583 do một công nhân Luân Đôn là ông William Gybbon tham gia.Phí bảo hiểm ông đóng lúc đó là 32 bảng Anh.Khi ông chết năm đó người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.Sau cách mạng ánh sáng năm 1688 ở Châu Âu chỉ có Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lí của BHNT.Nhờ vậy mà trong suốt 3 thập kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã phát triển rất mạnh mẽ.Mặc dù vậy công ty BHNT ra đời đầu tiên không phải trên lãnh thổ Anh quốc mà là ở Mỹ.Công ty này đến nay vẫn hoạt động. nhưng lúc đầu chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình.Năm 1762, công ty bảo hiểm Equitable ở nước Anh được thành lập và bán bảo hiểm cho mọi người dân. Ngành công nghiệp bảo hiểm Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình bảo hiểm Anh.Vào năm 1735, công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã ra đời ở Charleston, thủ phủ bang South Carolina.Vào năm 1759; Hội nghị giáo hội Trưởng lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kỳ.Tập đoàn này hoạt động vì lợi ích của các mục sư và tín đồ.Ngày 22/5/1761, tập đoàn này đã kí kết được HĐBHNT đầu tiên với công chúng Mỹ. Mặc dù vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ BHNT mới thật sự cất cánh.Chìa khoá dẫn đến thành công chính là nhờ các công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các nhóm tôn giáo. Trong thế kỷ XIX, người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức khoẻ cho hội viên.Bên cạnh đó cũng có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những ai là hội viên của họ.Ngày nay các hội kín này vẫn cứ tiếp tục bảo hiểm cho các hội viên; điều này diễn ra tương tự như ở hầu hết các tổ chức của người lao động.Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc nhiều HĐBHNT và sức khoẻ cho nhân viên.Các hợp đồng này không chỉ đơn thuần BHNT mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân viên khi họ bị bệnh tai nạn hay về hưu.Trong các hợp đồng này thường thì nhân viên chỉ phải trả một phần phí bảo hiểm. Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản.Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay. Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ đôla, năm 1989 đã lên tới 1210,2 tỷ và năm 1993 con số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm.Hiện nay có 5 thị trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh và Pháp. 1.1.1.2 Ở Việt Nam Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu khách quan của con người và ra đời từ rất lâu trên thế giới.Tuy nhiên ở Việt Nam ngành bảo hiểm nói chung, BHNT nói riêng ra đời tương đối muộn.Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm gắn liền với những sự kiện lịch sử của đất nước. Ngày 17/12/1964 bằng quyết định số 179/CP của hội đồng chính phủ, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt Nam tên giao dịch là Bảo Việt được thành lập và chính thức đi vào khai trương hoạt động ngày 15/1/1965 với vốn điều lệ là 10 triệu VND (tương đương 2 triệu USD thời điểm đó) dưới sự quản lí trực tiếp của Bộ tài chính.Trong thời gian này bảo Việt chỉ mới triển khai mảng bảo hiểm phi nhân thọ, mà chưa triển khai BHNT.Tuy nhiên, Bảo Việt cũng đã chú trọng đến việc mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ bảo hiểm đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm con người làm tiền đề cho việc triển khai BHNT về sau. Ở miền Nam, vào những năm 1970 đã có một công ty BHNT ra đời có tên là công ty BHNT Hưng Việt.Công ty bảo hiểm này triển khai được một số sản phẩm bảo hiểm như: BHNT trọn đời, BH tử kì thời hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm.Nhưng công ty mới chỉ ở giai đoạn đầu triển khai nên kết quả chưa rõ nét. Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam đã tuyên bố đình chỉ các hoạt động của các công ty bảo hiểm miền Nam Việt Nam, trong đó có công ty BHNT Hưng Việt và tuyên bố thanh lí giải thể các tổ chức bảo hiểm tư nhân. Năm 1976, Bộ trưởng bộ kinh tế tài chính chính phủ lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ra quyết định số 21/QĐ-BKT thành lập công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm Việt Nam (viết tắt là BAVINA), thuộc tổng nha tài chính Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền nam Việt Nam. Năm 1977, Bộ trưởng Bộ tài chính ra quyết định số 61/TCQĐ/TCCB về việc sát nhập BAVINA thành chi nhánh của Bảo Việt tại TPHCM.Như vậy kể từ đây, Bảo Việt chính thức có mạng lưới hoạt động tại các tỉnh miền Nam. Chính sách mở cửa vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm Việt Nam được học hỏi và tiếp cận với những kĩ thuật bảo hiểm mới trên thế giới.Từ kinh nghiệm các nước, Bảo Việt lúc đó vẫn là công ty bảo hiểm duy nhất ở Việt Nam đã thấy được tiềm năng to lớn của BHNT ở nước ta.Vì vậy, Bảo Việt bắt đầu nghiên cứu triển khai BHNT ở Việt Nam với đề án: “BHNT và điều kiện triển khai ở Việt Nam” nhưng lúc đó chưa có đủ điều kiện vì : thu nhập dân cư còn thấp, kinh tế còn kém phát triển, tỉ lệ lạm phát còn cao,thị trường tài chính chưa phát triển, chưa có môi trường đầu tư và các công ty bảo hiểm chưa được phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và khách hàng, đội ngũ cán bộ bảo hiểm lúc đó còn chưa được trang bị những kiến thức về nghiệp vụ BHNT.Do đó Bảo Việt chỉ triển khai bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 1 năm (BHNT tử kì có thời hạn 1 năm). Đây là loại hình BHNT đơn giản nhất và có nhiều đặc điểm tương đông bảo hiểm con người phi nhân thọ. Sau thời kì đổi mới kinh tế được 10 năm nền kinh tế việt nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao từ 6-9% /năm, môi trường kinh tế- xã hội và môi trường pháp lí có nhiều thuận lợi hơn. Đời sống người dân ngày càng được nâng cao và ở một bộ phận quần chúng dân cư đã bắt đầu có tích luỹ. Đây là những nhân tố thuận lợi cho BHNT ra đời và phát triển ở Việt Nam.Năm 1996, thực hiện chủ trương mở rộng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tới các tầng lớp dân cư, Bảo Việt đã nghiên cứu và đưa ra thị trường dịch vụ BHNT lần đầu tiên ở Việt Nam thể hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt trên thị trường BHNT Việt Nam.Ngày 20/3/1996, Bộ tài chính đã chính thức quyết định cho phép Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm : BHNT hỗn hợp và bảo hiểm an sinh giáo dục.Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm BHNT đầu tiên trên thị trường đánh dấu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn của BHNT ở Việt Nam. Có thể nói, Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 là một bước ngoặt có tính cách mạng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam.Nghị định này đã thể hiện chủ trương phát triển một ngành đa thành phần của Nhà nước ta.Tuy nhiên xét về thực chất kể từ 6/1999 khi có sự ra đời của các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài như: công ty BHNT Chinfon Manulife( nay là manulife), công ty BHNT Prudential, BHNT quốc tế Mỹ AIA, Bảo Minh-CMG(nay là Dai-ichi life)….BHNT mới chấm dứt giai đoạn độc quyền của Bảo Việt nhân thọ và bắt đầu đi vào phát triển có sự cạnh tranh. Cho dù mới hình thành và phát triển trong một thời gian ngắn (từ năm 2000) nhưng thị trường BHNT đã và đang tỏ rõ là một thị trường rất tiềm năng.Thị trường BHNT đã có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô như: tăng số lượng các công ty, tăng doanh thu phí bảo hiểm,STBH và số lượng HĐBH, bình quân phí thu hàng năm của thị trường tăng từ 30% đến 40% /năm.Từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất kinh doanh BHNT thì đến nay toàn thị trường đã có 8 công ty BHNT hoạt động, với doanh thu phí bảo hiểm gốc cũng có sự tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm. Quy mô thị trường bảo hiểm ngày càng được mở rộng, thể hiện tổng doanh thu phí toàn thị trường tăng nhanh qua các năm, năm 1999 doanh thu phí bảo hiểm mới chỉ đạt 485 tỷ thì năm 2001 đạt gần 2786 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,56% /GDP.Tốc độ tăng trưởng BHNT giai đoạn 1996-2001 đạt 165% /năm.Có thể thấy rõ điều này qua bảng dưới đây: Bảng 1:Doanh thu phí bảo hiểm gốc của các DNBHNT trên thị trường Việt Nam (giai đoạn 2001-2006) TT  Tên DNBH  2001  2002  2003  2004  2005  2006   1  Bảo việt  1507  2157  2606  3043  3063  3099   2  Dai-ichi  40  79  140  211  286  369   3  Prudential  828  1635  2557  3103  3354  3529   4  Manulife  302  548  780  888  898  896   5  AIA  106  224  356  463  522  518   6  ACE l ife  -  -  -  -  3  52   7  Prevoir  -  -  -  -  -  16   8  Toàn thị trường  2785  4645  6441  7710  8130  8481   Nguồn:Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam. Ghi chú: (-) thể hiện các số liệu chưa có của các công ty BHNT mới được thành lập Theo đánh giá của các chuyên gia thị trường BHNT Việt Nam là 1 thị trường đầy hứa hẹn.Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng ở tốc độ cao GDP của Việt Nam hiện nay đang tăng trưởng với tốc độ trên 8% /năm, dân số Việt Nam hiện nay trên 83 triệu dân, trong đó số dân ở độ tuổi dưới 30 chiếm 60%.Theo thống kê doanh thu phí BHNT hiện nay chỉ chiếm khoảng 2.5% tổng GDP của Việt Nam và Bộ Tài Chính hi vọng doanh thu này sẽ chiếm trên 4% vào năm 2010.Trong khi đó ở các nước trong khu vực doanh thu phí BHNT đạt khoảng 5-6% tổng GDP. Những kết quả tăng trưởng đầy ấn tượng của dịch vụ BHNT cùng với thói quen tiết kiệm của người dân Việt Nam đã góp phần tạo nên sự hấp dẫn cho các công ty BHNT nước ngoài.Việc có mặt nhiều công ty KDBH lớn của thế giới là những tín hiệu tích cực báo hiệu sự phát triển mới , đặc biệt trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới của đất nước.Có thể nói thị trường BHNT Việt Nam đang từng bước hội nhập với thị trường BHNT khu vực và thế giới. 1.1.2 Vai trò của BHNT Cũng giống như các loại hình bảo hiểm khác BHNT ra đời nhằm khắc phục những khó khăn về tài chính khi gặp rủi ro.Khi một người trụ cột trong gia đình bị tai nạn dẫn đến thương tật hoặc chết, bản thân người đó hoặc những người sống phụ thuộc sẽ rơi vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính.Hơn lúc nào hết họ sẽ cần đến nguồn tài chính kịp thời để bù đắp thiệt hại lấy lại sự cân bằng ổn định tình hình tài chính.Hơn nữa vượt lên cả ý nghĩa “tiền bạc” BHNT mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất trắc cho người được bảo hiểm. Hiện nay các nước đều quan tâm tới hệ thống an sinh xã hội.Tuy nhiên để được nhận trợ cấp thì phải có một số tiêu chuẩn và sự trợ cấp này cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính.Tham gia BHNT sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó.Vì bảo hiểm vận hành giống như cơ chế chuyển giao rủi ro,cùng với việc đóng phí bảo hiểm người được bảo hiểm đã chuyển giao rủi ro sang công ty bảo hiểm.Khi không may gặp rủi ro dẫn đến tử vong thay vì bỏ tiền ra để lo các chi phí mai táng gia đình anh ta sẽ được nhận tiền từ công ty bảo hiểm để trang trải các chi phí. BHNT còn giúp cho những người tham gia có thể tích luỹ cho những kế hoạch tài chính tương lai như để dành tiền cho con ăn học, cho con một số vốn để vào đời hoặc có thể tiết kiệm tiền để mua xe, mua nhà, vui hưởng cuộc sống an nhàn khi tuổi già. Không chỉ có vậy BHNT còn góp phần ổn định tài chính và sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo dựng mối quan hệ gần gũi gắn bó giữa doanh nghiệp và người làm công ngay cả những lúc doanh nghiệp gặp khó khăn.Khi doanh nghiệp bỏ tiền ra mua BHNT cho các nhân viên của mình thì nhân viên họ sẽ cảm thấy họ được quan tâm, được tôn trọng.Từ đó ý thức làm việc của họ được tăng lên, có thể vì thế mà năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng cao, lợi nhuận cũng ngày càng tăng.Lợi nhuận mà họ đem lại có thể lớn hơn rất nhiều so với chi phí bỏ ra mua bảo hiểm cho nhân viên.Chính vì vậy hiện nay có một số doanh nghiệp rất quan tâm đến việc mua BHNT cho nhân viên của mình. Đặc biệt là những công việc mà độ rủi ro cao như khai thác than, làm việc ở hầm mỏ…thì các doanh nghiệp thường mua bảo hiểm nhóm cho nhân viên. Đối với một số nhân viên văn phòng có trình độ cao doanh nghiệp mua BHNT cho nhân viên như là một cách để giữ chân họ ở lại làm việc lâu dài cho doanh nghiệp. Bên cạnh việc mang lại những lợi ích cho mỗi cá nhân gia đình và doanh nghiệp thì BHNT còn mang lại nhiều lợi ích khác cho xã hội. BHNT là một kênh huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để đầu tư cho những dự án trung dài hạn nhằm góp phần phát triển đất nước.Khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng cao sẽ xuất hiện nhu cầu tiết kiện hoặc đầu tư số tiền tạm thời nhàn rỗi.BHNT đã huy động được những đồng tiền nhàn rỗi, nhỏ lẻ trong dân cư thành một quỹ tài chính tập trung khá lớn.Quỹ này chủ yếu để chi trả cho người được bảo hiểm.Bên cạnh đó các công ty BHNT còn phải lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ như: Dự phòng toán học, dự phòng phí chưa được hưởng, dự phòng chi trả, dự phòng chia lãi….khi nhàn rỗi đây sẽ là nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế. Thông qua cơ chế chuyển giao rủi ro BHNT đã góp phần giảm gánh nặng ngân sách quốc gia trong việc chăm lo người già và những người phụ thuộc khi người trụ cột trong gia đình qua đời.Mặt khác khi KDBH thì các DNBHNT phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước như nộp thuế…Vì vậy ngân sách nhà nước cũng được tăng lên một phần và có thể sử dụng vào nhiều mục đích hữu ích khác. Xét trên bình diện xã hội, BHNT đã góp phần tạo nên công ăn việc làm cho nhiều người làm giảm tỉ lệ thất nghiệp.Hầu hết các DNBHNT đều cần mạng lưới đại lý rộng khai thác,nhân viên rất lớn.Vì vậy dịch vụ này phát triển đã tạo ra công ăn việc làm cho người lao động.Ngoài ra thông qua việc đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau như: xây dựng cơ sở hạ tầng,các lĩnh vực sản xuất thương mại, ngân hàng- tài chính….BHNT còn gián tiếp tạo ra công ăn việc làm cho các ngành nghề khác. Ở nước ta BHNT phát triển chỉ trong một thời gian ngắn số việc làm mà lĩnh vực này tạo ra lên tới trên 74494 người, trong đó trên 70568 đại lí chuyên nghiệp trong đó có hàng nghìn đại lý giỏi thu nhập cao trên 10 triệu đồng/ tháng. Đây là đóng góp hữu hiệu của ngành BHNT trong bối cảnh số lượng người chưa có việc làm ở nước ta đang có xu hướng tăng lên.Với sự phát triển đó nghề tư vấn bảo hiểm có tên trong danh mục nghề nghiệp ở nước ta. 1.1.3 Khái niệm và đặc điểm của BHNT 1.1.3.1 Khái niệm Cuộc sống con người luôn chứa đựng vô vàn rủi ro như tử vong thương tật hay già yếu.Khi rủi ro xảy ra thường gây nên những tổn thất về tài chính đối với người thân và gia đình.Nhiều người trên thế giới đã xem BHNT là một giải pháp thực tiễn có thể đáp ứng những nhu cầu tài chính của họ.Vậy BHNT là gì? BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện bảo hiểm xảy ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ đúng hạn.Nói cách khác, BHNT là loại hình bảo hiểm bảo đảm cho các rủi ro liên quan đến tính mạng, sức khoẻ và tuổi thọ con người. Các sự kiện được chi trả trong BHNT bao gồm: * Hết hạn hợp đồng: khi hết thời hạn bảo hiểm người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia một số tiền nhất định đã cam kêt và lãi chia thêm (nếu có) * Thương tật * Tử vong 1.1.3.2 Đặc điểm 1.1.3.2.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT và bảo hiểm phi nhân thọ.Mỗi người mua BHNT sẽ định kì (có thể là từng tháng, từng quý,6 tháng hoặc một năm) nộp một khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm)cho công ty bảo hiểm, ngược lại công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền lớn (gọi là STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thoả thuận từ trước (khi kí kết HĐBH)khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra.STBH được chi trả khi người được BH đạt đến một độ tuổi nhất định và được ấn định trong hợp đồng.Hoặc số tiền này được chi trả cho thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm.Số tiền này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết như: thuốc men,mai táng, chi phí giáo dục con cái….Chính vì vậy BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Tuy nhiên tính chất tiết kiệm khi mua BHNT không giống như các hình thức tiết kiệm khác như tiết kiệm bưu điện, tiết kiệm ngân hàng mặc dù các loại hình này đều nhằm mục đích tiết kiệm.Tiết kiệm trong BHNT là tiết kiệm một cách thường xuyên có kế hoạch và có kỉ luật. Đây là sự tiết kiệm từ những khoản tiền rất nhỏ đến khi đáo hạn hợp đồng hoặc khi sự kiện bảo hiểm xảy ra khách hàng sẽ được nhận một khoản tiền rất lớn từ nhà bảo hiểm.Tiết kiệm ngân hàng hay tiết kiệm bưu điện không phải bằng những khoản tiền nhỏ định kì như BHNT mà bằng nhữn