Đóng vai trò là trụ cột của hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay, BHXH đã và đang là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần ổn định đời sống, kinh tế xã hội. Trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, hệ thống BHXH của nước ta đang từng bước được hoàn thiện và phát triển, đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
Trong thời gian qua, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. Đến nay, tất cả những người lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực đều có quyền được tham gia BHXH. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì khối DNNQD đang ngày càng phát triển về số lượng doanh nghiệp và số lao động. Vì vậy, các DNNQD trở thành đối tượng chiếm tỷ trọng lớn và là khối có tiềm năng thu tốt nhất.
Hoạt động của BHXH bao gồm rất nhiều khâu, mỗi khâu đều là một mắt xích quan trọng trong đó thu BHXH là một nghiệp vụ trọng yếu vì nó góp phần hình thành, đảm bảo ổn định và tăng trưởng quỹ; đảm bảo khả năng chi trả cho cả hệ thống. Chính vì vậy, nghiệp vụ thu nói chung và thu ngoài quốc doanh nói riêng luôn được xem là nhiệm vụ trọng tâm của ngành.
Với mong muốn được hiểu biết hơn về công tác thu cũng như thực tế công tác này đang diễn ra tại quận Ba Đình như thế nào, em xin chọn đề tài : "Công tác thu BHXH bắt buộc của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Bảo hiểm xã hội quận Ba Đình. Thực trạng và giải pháp" làm nội dung nghiên cứu cho bài viết của mình nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng công tác công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD ở Quận Ba Đình, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải quyết nhằm hoàn thiện tốt hơn công tác thu BHXH bắt buộc của khối ngoài quốc doanh tại BHXH Quận Ba Đình.
67 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3470 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Bảo hiểm xã hội quận Ba Đình Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đóng vai trò là trụ cột của hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay, BHXH đã và đang là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần ổn định đời sống, kinh tế xã hội. Trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, hệ thống BHXH của nước ta đang từng bước được hoàn thiện và phát triển, đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
Trong thời gian qua, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. Đến nay, tất cả những người lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực đều có quyền được tham gia BHXH. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì khối DNNQD đang ngày càng phát triển về số lượng doanh nghiệp và số lao động. Vì vậy, các DNNQD trở thành đối tượng chiếm tỷ trọng lớn và là khối có tiềm năng thu tốt nhất.
Hoạt động của BHXH bao gồm rất nhiều khâu, mỗi khâu đều là một mắt xích quan trọng trong đó thu BHXH là một nghiệp vụ trọng yếu vì nó góp phần hình thành, đảm bảo ổn định và tăng trưởng quỹ; đảm bảo khả năng chi trả cho cả hệ thống. Chính vì vậy, nghiệp vụ thu nói chung và thu ngoài quốc doanh nói riêng luôn được xem là nhiệm vụ trọng tâm của ngành.
Với mong muốn được hiểu biết hơn về công tác thu cũng như thực tế công tác này đang diễn ra tại quận Ba Đình như thế nào, em xin chọn đề tài : "Công tác thu BHXH bắt buộc của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Bảo hiểm xã hội quận Ba Đình. Thực trạng và giải pháp" làm nội dung nghiên cứu cho bài viết của mình nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng công tác công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD ở Quận Ba Đình, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải quyết nhằm hoàn thiện tốt hơn công tác thu BHXH bắt buộc của khối ngoài quốc doanh tại BHXH Quận Ba Đình.
II. Mục đích nghiên cứu
* Nhận thức một số vấn đề lý luận về thu BHXH trong tình hình hiện nay và tầm quan trọng của công tác thu BHXH nói chung và thu BHXH trong DNNQD nói riêng.
* Đánh giá thực trạng công tác thu BHXH của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình.
* Đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH cho khối DNNQD.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận và thực tiễn về thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định là vấn đề thu BHXH bắt buộc khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình trong giai đoạn 2007 - 2010
III. Nội dung nghiên cứu
Bài viết tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thu BHXH , phân tích làm rõ thực trạng thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình.
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Một số phương pháp khác...
V. Cấu trúc của khóa luận
Bài báo cáo bao gồm 3 phần như sau :
Chương I : Một số vấn đề lý luận chung về công tác thu BHXH
Chương II : Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc của khối
DNNQD tại BHXH Quận Ba Đình.
Chương III : Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thành tốt công tác thu BHXH của DNNQD tại cơ quan BHXH Quận Ba Đình.
Do thời gian có hạn và trình độ lý luận, thực tiễn còn hạn chế nên bài viết còn nhiều thiếu sót mong thầy giáo đọc và cho ý kiến để em có thể hoàn thành bài viết này tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I :
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC THU BHXH
1. Một số khái niệm
1.1 Khái niệm về BHXH
BHXH ra đời từ rất sớm trên thế giới. Ở nước ta do hoàn cảnh chiến tranh, chính sách BHXH xuất hiện muộn hơn. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 14/6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 54/SL về việc cấp hưu bổng cho công chức. Đây là bằng chứng cho sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến chính sách BHXH và vai trò của chính sách này đối với con người.
Trên bình diện quốc tế, khái niệm chung của ILO về ASXH ( trong Công ước 102, 1952) cũng được sử dụng trong lĩnh vực BHXH. Theo đó, BHXH có thể hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, TNLĐ, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, căn cứ vào mục đích của BHXH thì BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập và cung cấp các dịch vụ việc làm, chăm sóc y tế thiết yếu cho người lao động và một số thành viên gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn nghề nghiệp, tàn tật, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp... trên cơ sở đóng quỹ của người tham gia, góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội.
Tuy nhiên ở Việt Nam, thuật ngữ BHXH thường được sử dụng với nội hàm hẹp hơn. Theo đó, BHXH là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế toàn bộ thu nhập của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết... trên cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội.
Ngày nay, BHXH được nghiên cứu dười nhiều góc độ khác nhau, vì vậy, có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH, chẳng hạn:
- Trong Luật BHXH, thuật ngữ BHXH được hiểu là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.
- Ở góc độ kiến thức bách khoa, BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở đóng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
- Ở góc độ tài chính, BHXH được định nghĩa: là quá trình thành lập và sử dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng người lao động, có sự bảo trợ của nhà nước, để san sẻ rủi ro, đảm bảo thu nhập cho họ và gia đình trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật.
- Ở góc độ pháp luật, BHXH là một chế độ pháp lý quy định đối tượng, điều kiện, mức độ đảm bảo vật chất và các dịch vụ cần thiết để bảo vệ người lao động và gia đình họ trong các trường hợp bảo hiểm được nhà nước xác định...
Mặc dù xuất phát từ những góc độ khác nhau nhưng đều xem xét BHXH trước hết là một hình thức bảo hiểm nhưng mang tính chất xã hội, hoạt động phi lợi nhuận, có sự bảo hộ của nhà nước, chủ yếu nhằm mục đích đảm bảo thu nhập cho người lao động và an toàn xã hội.
1.2. Khái niệm thu BHXH
Với chức năng cai trị, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình thông qua các thể chế chính trị bao gồm các hệ thống pháp luật và các thiết chế chính trị ( các cơ quan quyền lực Nhà nước) để tổ chức thực hiện công tác thu BHXH dưới 2 hình thức bắt buộc và tự nguyện.Tùy theo điều kiện cụt hể của từng đối tượng, Nhà nước quy định cụ thể đối tượng nào thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc thì đối tượng đó phải đóng BHXH theo quy định, còn đối tượng nào thuộc diện tự nguyện thì đối tượng đó được quyền lựa chọn, cân nhắc các chế độ BHXH, cân nhắc mức đóng, mức hưởng trước khi tham gia. Khi đã tham gia, tất cả các đối tượng tự nguyện hay bắt buộc đều phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về mức đóng, thời gian đóng và điều kiện hưởng chế độ BHXH. Thu BHXH luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Vì vậy ta có thể hiểu:
Thu BHXH là việc nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng tham gia phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép
những đối tượng tự nguyện tham gia được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho việc chi trả các chế độ BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH
Thu BHXH thực chất là quá trình phân phối lại một phần thu nhập của các đối tượng tham gia BHXH, phân phối và phân phối lại một phần của cải xã hội dưới dạng giá trị nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích xã hội, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
1.3 Khái niệm thu BHXH của DNNQD
1.3.1. Khái niệm về DNNQD và thành phần kinh tế của DNNQD
1.3.1.1. Khái niệm
Theo Luật DN Nhà nước được Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20/04/1995, luật DN sửa đổi được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/06/1999 và luật khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/06/1994 có quy định : "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh".
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Các DNNQD là toàn bộ các đơn vị sản xuất kinh doanh tư nhân của tư nhân đứng ra thành lập, đầu tư kinh doanh và tổ chức quản lý.
1.3.1.2. Các thành phần kinh tế của DNNQD
Các DNNQD bao gồm:
- DN tư nhân
- Các công ty
+ CTCP
+ CTTNHH
+ Công ty hợp danh
+ DN có vốn đầu tư nước ngoài
+ Doanh nghiệp tập thể, đoàn thể
Đây là các loại hình đơn vị sản xuất kinh doanh cơ bản cấu thành nên khối DNNQD nhưng trong phạm vi khóa luận này em chỉ xin đề cập đến các khối doanh nghiệp là CTCP, CTTNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân.
Công ty Cổ phần
Có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản sau về CTCP:
- CTCP là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân độc lập. Đây là loại hình công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, hoạt động mang tính chất xã hội hóa cao.
- CTCP chỉ chịu trách nhiệm đối với mọi khoản nợ bằng tài sản riêng của công ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Vốn điều lệ trong CTCP được chia ra làm nhiều phần bằng nhau gọi là CP. Trong quá trình hoạt động, CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để công khai huy động vốn.
- CTCP có số lượng thành viên rất đông. Có CTCP có tới hàng vạn cổ đông ở hầu khắp các nước trên thế giới, vì vậy khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là trong công nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của Doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Xét về mặt bản chất, CTTNHH có những đặc trưng cơ bản sau:
- Là một pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý này quyết định chế độ trách nhiệm của công ty.
- Thành viên công ty không nhiều và thường là người quen biết nhau.
- Vốn điều lệ chia thành nhiều phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít khác nhau và bắt buộc phải góp đủ khi thành lập công ty. Trong điều lệ công ty phải ghi rõ số vốn ban đầu. Nếu khi thành lập công ty mà các thành viên chưa góp đủ phần vốn thì công ty bị coi là vô hiệu.
- Phần vốn góp không thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài.
- Trong quá trình hoạt động, CTTNHH không được phép công khai huy động vốn trong công chúng ( Không được phép phát hành cổ phiếu).
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Theo luật Đầu tư 2005 thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
1.3.2 Khái niệm thu BHXH của DNNQD
Thu BHXH của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là việc nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đóng BHXH theo mức phí quy định. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho việc chi trả các chế độ BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH.
2. Vai trò của thu BHXH
Thu BHXH là một hoạt động rất quan trọng đối với quỹ BHXH nói riêng và hoạt động của hệ thống BHXH nói chung. Thu BHXH là nhân tố có tính chất quyết định đến sự tồn tại, phát triển của BHXH của bất kỳ một quốc gia nào. Vai trò quan trọng của thu BHXH thể hiện trong những điểm sau :
- Công tác thu là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm bảo đảm nguồn quỹ độc lập, công tác thu được thực hiện ở 2 cấp: cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp quận, huyện, thị xã. Công tác thu được thực hiện thường xuyên, hằng tháng có vai trò đảm bảo cho quỹ BHXH được độc lập, thống nhất từ địa phương lên trung ương.
- Công tác thu là một điều kiện cần và đủ cùng tạo lập để thực hiện tốt chính sách BHXH. Công tác thu là bước khởi đầu cho hoạt động quỹ BHXH, có thu mới có chi chế độ và chi cho hoạt động sự nghiệp BHXH diễn ra dễ dàng, không có công tác thu thì không thể thực hiện được các chính sách BHXH.
- Công tác thu vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia BHXH ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Thực hiện được công tác thu từ đó rà soát được số lượng người tham gia, kiểm tra được nhiều nội dung khác nhau như tiền lương, tiền công, sự biến động các nội dung đó. Từ đó phát hiện ra các sai phạm và xử lý kịp thời, nghiêm minh.
- Hoạt động của công tác thu BHXH hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Nguyên tắc hoạt động của BHXH là có đóng có hưởng, vì thế thu là một phần quan trọng trong hoạt động BHXH. Có thu mới có nguồn để chi trả chế độ BHXH, BHXH mới có thể phát huy được vai trò của mình đối với người lao động khi họ gặp phải những rủi ro. Có thu thì mới có nguồn để duy trì hoạt động của cả hệ thống BHXH.
- Công tác thu còn là một điều kiện để duy trì ổn định mức đóng cho người lao động và người sử dụng lao động. Thu BHXH được làm tốt, ít đối tượng trốn đóng thì sẽ đảm bảo nguồn quỹ, thu đủ chi. Như vậy mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động sẽ không phải tăng lên.
- Công tác thu có vai trò rất quan trọng đối với quỹ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở đóng góp của các đối tượng tham gia. Nếu công tác thu không được thực hiện tốt thì sẽ không đảm bảo được nguồn quỹ, thu không đủ chi. Quỹ BHXH cần đảm bảo đủ lớn và đảm bảo tính bền vững để cân đối trong thời gian dài từ 30 - 40 năm, tính cụ thể với một người nghĩa là từ khi tham gia đến khi hưởng và chết, nếu công tác thu không được thực hiện tốt thì nguy cơ vỡ quỹ có thể xảy ra.
- Việc thực hiện tốt công tác thu sẽ tạo điều kiện cho Quỹ BHXH tăng trưởng. Số thu nhiều làm cho số tiền nhàn rỗi trong quỹ tăng lên. Số tiền này có thể được đem đi đầu tư, sinh lãi làm tăng trưởng quỹ BHXH, đảm bảo sự tồn tại bền vững của quỹ.
3. Nội dung thu BHXH
3.1. Đối tượng tham gia BHXH
Theo khoản 1 và 2 Điều 2 Luật BHXH Việt Nam,
1. Người tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:
Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên.
a) Cán bộ công chức viên chức
b) Công nhân quốc phòng, công nhân công an
c) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân
d) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đống BHXH bắt buộc.
2. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, các tổ chức khác và có thuê mướn , sử dụng và trả công cho người lao động.
3.2. Mức đóng và phương thức đóng
* Theo Điều 91 và 92 Luật BHXH.
* Điều 91: Mức đóng và phương thức đóng của người lao động
1. Hằng tháng, người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 điều 2 của Luật này đóng bằng 5 % mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí, tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.
2. Người lao động hưởng tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì mức đóng BHXH hằng tháng theo quy định tại khoản 1 điều này; phương thức đóng được thực hiện hàng tháng, hàng quý hoặc sáu tháng.
3. Mức đóng và phương thức đóng của người lao động quy định tại điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật này do Chính phủ quy định.
* Điều 92 : Mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động
1. Hàng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Luật này như sau.
a) 3% vào quỹ ốm đau, thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức BHXH
b) 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
c) 11% vào quỹ hưu trí, tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1%, cho đến khi đạt mức đóng là 14%
2. Hàng tháng, người sử dụng lao động đóng trên mức lương tối thiểu chung đối với mỗi người lao động quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Luật này, như sau :
a) 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
b) 16% vào quỹ hưu trí, tử tuât; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%.
3. Người sử dụng lao động thuộc các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo chu kỳ sản xuất kinh doanh thì mức đóng hàng tháng theo quy định tại khoản 1 Điều này; phương thức đóng được thực hiện hàng tháng, hàng quý hoặc sáu tháng một lần.
* Theo Luật BHYT hiện nay (Nghị địnhh 62/2009/NĐ - CP):
Đối tượng
1. Người lao động làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động; người lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật .
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân.
Đóng 4,5% trên mức tiền lương, tiền công hàng tháng của người lao động.
* Phương thức đóng BHXH dựa trên một số nguyên tắc sau:
- Hàng tháng, chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng, người sử dụng lao động đóng BHXH, trên quỹ tiền lương, tiền công của những người lao động tham gia BHXH; đồng thời trích từ tiền lương, tiền công của từng người lao động theo mức quy định để đóng cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
- Hàng tháng, người sử dụng lao động giữ lại 2% số phải nộp vào quỹ ốm đau, thai sản để chi trả kịp thời 2 chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động. Hàng quý thực hiện quyết toán với cơ quan BHXH, trường hợp quyết toán nhỏ hơn số tiền giữ lại thì người sử dụng lao động phải nộp số chênh lệch này vào tháng đầu của quý sau.
- Người sử dụng lao động tham gia BHXH đóng trụ sở ở địa bàn nào thì đăng ký tham gia đóng BHXH tại địa bàn đó theo phân cấp của cơ quan BHXH. Trường hợp đơn vị không có tư cách pháp nhân, không có tài khoản, con dấu riêng thì đóng theo đơn vị quản lý cấp trên.
- Người sử dụng lao động đóng BHXH bằng hình thức chuyển khoản. Trường hợp người sử dụng lao động hoặc người lao động đóng BHXH bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải hướng dẫn thủ tục nộp tiền
vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH. Nếu người sử dụng lao động hoặc người lao động nộp tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH thì chậm nhất sau 3 ngày làm việc, cơ quan BHXH phải nộp tiền vào tài khoản chuyên thu mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà