Đề tài Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn

Hôn nhân gia đình và trẻ em gắn bó với nhau, luôn luôn đóng một vai trò quan trọng và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình phát triển của các quốc gia. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, báo hiệu thêm một con người trên trái đất, thêm một vị trí trên bản đồ xã hội, báo hiệu một quan hệ thiêng liêng nhất trong một giáo dục: quan hệ “mẫu tử”. Đó cũng là kết quả ban đầu của hôn nhân, hình thành một gia đình đầy đủ. Lúc này, “chồng - vợ và con”, là những thành viên cốt lõi của một gia đình hai thế hệ - nói như P.H. Chambart de Lauwe rất đúng rằng: Chồng - vợ và con - đó là ba người, ba diễn viên, phân tích trong đó cuộc sống riêng có cả cuộc sống của toàn xã hội(1). Đứa trẻ sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ trong gia đình, hưởng thụ, kế thừa và sau đó tham gia vào quá trình sáng tạo không ngừng. Quá trình trưởng thành này cũng chính là quá trình xã hội hoá cá nhân con người, quá trình hình thành nhân cách, tạo lập nhiều mối quan hệ tốt đẹp, ổn định, lâu bền theo các loại hình gia đình truyền thống hoặc gia đình hiện đại trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển xã hội. Quá trình này cũng tạo lập nên nhiều mô hình, nhiều khuôn mẫu gia đình, từ mô hình hôn nhân đến mô hình nuôi dạy con cái. Nhiều câu hỏi được đặt ra trong các cuộc sống gia đình, từ gia đình nghèo khó đến gia đình giàu sang, từ gia đình viên chức đến gia đình buôn bán, từ gia đình đầy đủ đến gia đình có khuyết tật. Gia đình đã trở thành một biểu tượng văn hoá, chính trị trong nhiều quốc gia. Năm 1992, gia đình chính thức được công nhận như một trong các thang giá trị của xã hội Mỹ, trong đó vấn đề “thiên chức” của người mẹ đã được đề cao. Gia đình gắn bó với xã hội thông qua nhiều mối quan hệ, hỗ trợ cho cuộc sống hàng ngày của xã hội, từ việc tái sản sinh ra giống nòi đến việc nuôi dưỡng, duy trì lực lượng lao động và các công việc cơ bản khác mà xã hội và cộng đồng giao phó. Vì vậy, nếu nảy sinh những bối cảnh khủng hoảng, ly hôn, khuôn mẫu gia đình ổn định bị suy tàn sẽ tạo nên biết bao những vấn đề phức tạp trong cuộc sống của mỗi con người. Ngày nay, cùng với sự đa dạng về chính trị, kinh tế, văn hoá trên thế giới, nhiều quan niệm khác nhau về hôn nhân, gia đình và nuôi dạy con cái cũng đã xuất hiện. Tính bền vững của gia đình ngày càng giảm, ly hôn ngày càng tăng, tạo nên nhiều cái giá phải trả về mặt xã hội, về cá nhân và cộng đồng. Ly hôn không phải là tạo nên sự tự do đơn giản của hai vợ chồng mà là tạo nên sự nghèo khổ vật chất và tinh thần, và con cái lang thang không nơi nương tựa, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ xã hội. Nhiều nước đã ban hành đạo luật về ly hôn. Bất cứ nước nào, đạo luật ly hôn thông thoáng hơn cũng sẽ làm cho tỷ lệ ly hôn cao.

doc86 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3678 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I - mở đầu I. Tính cấp thiết của đề tài. H ôn nhân gia đình và trẻ em gắn bó với nhau, luôn luôn đóng một vai trò quan trọng và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình phát triển của các quốc gia. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, báo hiệu thêm một con người trên trái đất, thêm một vị trí trên bản đồ xã hội, báo hiệu một quan hệ thiêng liêng nhất trong một giáo dục: quan hệ “mẫu tử”. Đó cũng là kết quả ban đầu của hôn nhân, hình thành một gia đình đầy đủ. Lúc này, “chồng - vợ và con”, là những thành viên cốt lõi của một gia đình hai thế hệ - nói như P.H. Chambart de Lauwe rất đúng rằng: Chồng - vợ và con - đó là ba người, ba diễn viên, phân tích trong đó cuộc sống riêng có cả cuộc sống của toàn xã hội(1) P.H. Chambart de Lauwe “Gia đình, giáo dục và những mâu thuẫn của việc khai hoá công nghiệp” (tạp chí Giáo dục - 1971, số 4, trang 12 - bản dịch XHHGĐ - 1978). . Đứa trẻ sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ trong gia đình, hưởng thụ, kế thừa và sau đó tham gia vào quá trình sáng tạo không ngừng. Quá trình trưởng thành này cũng chính là quá trình xã hội hoá cá nhân con người, quá trình hình thành nhân cách, tạo lập nhiều mối quan hệ tốt đẹp, ổn định, lâu bền theo các loại hình gia đình truyền thống hoặc gia đình hiện đại trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển xã hội. Quá trình này cũng tạo lập nên nhiều mô hình, nhiều khuôn mẫu gia đình, từ mô hình hôn nhân đến mô hình nuôi dạy con cái. Nhiều câu hỏi được đặt ra trong các cuộc sống gia đình, từ gia đình nghèo khó đến gia đình giàu sang, từ gia đình viên chức đến gia đình buôn bán, từ gia đình đầy đủ đến gia đình có khuyết tật. Gia đình đã trở thành một biểu tượng văn hoá, chính trị trong nhiều quốc gia. Năm 1992, gia đình chính thức được công nhận như một trong các thang giá trị của xã hội Mỹ, trong đó vấn đề “thiên chức” của người mẹ đã được đề cao. Gia đình gắn bó với xã hội thông qua nhiều mối quan hệ, hỗ trợ cho cuộc sống hàng ngày của xã hội, từ việc tái sản sinh ra giống nòi đến việc nuôi dưỡng, duy trì lực lượng lao động và các công việc cơ bản khác mà xã hội và cộng đồng giao phó. Vì vậy, nếu nảy sinh những bối cảnh khủng hoảng, ly hôn, khuôn mẫu gia đình ổn định bị suy tàn sẽ tạo nên biết bao những vấn đề phức tạp trong cuộc sống của mỗi con người. Ngày nay, cùng với sự đa dạng về chính trị, kinh tế, văn hoá trên thế giới, nhiều quan niệm khác nhau về hôn nhân, gia đình và nuôi dạy con cái cũng đã xuất hiện. Tính bền vững của gia đình ngày càng giảm, ly hôn ngày càng tăng, tạo nên nhiều cái giá phải trả về mặt xã hội, về cá nhân và cộng đồng. Ly hôn không phải là tạo nên sự tự do đơn giản của hai vợ chồng mà là tạo nên sự nghèo khổ vật chất và tinh thần, và con cái lang thang không nơi nương tựa, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ xã hội. Nhiều nước đã ban hành đạo luật về ly hôn. Bất cứ nước nào, đạo luật ly hôn thông thoáng hơn cũng sẽ làm cho tỷ lệ ly hôn cao. Trong những năm gần đây, ở nước ta hàng năm các toà án phải xử lý trên 20.000 vụ ly hôn. Trong tổng số 35.000 vụ đã thụ lý hồ sơ, gần đây có đến 21.013 vụ do mâu thuẫn gia đình, người vợ bị đánh đập, ngược đãi (An ninh Thủ đô số 379, 28/11/1999). Theo thống kê của Toà án Hà Nội từ 1978 đến 1994 có 23.738 vụ kiện ly hôn(2) Tạp chí Khoa học về Phụ nữ số 1/1996. ; còn ở thành phố Hồ Chí Minh từ 1985 đến 1990 có 21.814 vụ ly hôn. Theo Toà án Nhân dân tối cao, từ 1996 đến 2001, hàng năm có tới hàng nghìn vụ ly hôn trong cả nước và những vụ ly hôn này đã tạo nên biết bao khó khăn cho các gia đình, cộng đồng và xã hội. Mọi người đều khẳng định rằng, ly hôn gây tác hại trước hết cho con cái, làm căng thẳng các mối quan hệ bố mẹ - con cái, nó định hình lại các mối quan hệ họ hàng, gia tộc, xóm làng. Một số nghiên cứu đã được công bố, cho rằng ly hôn đã làm thất vọng mọi người, đã làm xấu đi thực sự các điều kiện sinh hoạt kinh tế và văn hoá và đời sống tinh thần, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống tốt đẹp. Chính R. Arons đã cho rằng “ly hôn là cuộc khủng hoảng của sự biến đổi gia đình gây ra những thay đổi trong hệ thống gia đình”(3) Ahrons, Constance R. (1980) “Divorce: A. Crisis of family trausitrin and change”. Family Relations, 29 October, 533-540 (trích lại từ Tương của gia đình - bản dịch - NXB CTQG, 2002). . Trong hoàn cảnh của xã hội Việt Nam, cùng với sự tăng lên của các gia đình ly hôn, nhất là ở các đô thị, số lượng trẻ em trong các gia đình ly hôn cũng tăng lên và rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trong số tỷ lệ 65%-70% gia đình ly hôn, có tới hàng nghìn trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành đã sống trong hoàn cảnh không có cha, hoặc không có mẹ, hoặc không có cả cha lẫn mẹ, phải sống với ông, bà, chú, bác nội ngoại, dì ghẻ hoặc bố dượng. Nhiều em rơi vào hoàn cảnh lang thang đường phố để kiếm sống, lao động sớm, hoặc rơi vào tình trạng nghiện hút, bị lạm dụng tình dục, mất mát những quan hệ thiêng liêng như mẹ con, quan hệ huyết thống trong một gia đình truyền thống. Vì vậy, ngày nay, hơn bao giờ hết, mặc dù trước mắt chúng ta, những phát minh mới về khoa học và công nghệ đã mở rộng tầm hiểu biết và kỹ năng của chúng ta, đã tạo nên những xã hội tri thức, nhưng xã hội cũng dường như ngày một phức tạp thêm. Với những chiếc đài và vô tuyến nhỏ xíu cung cấp thông tin suốt 24 giờ hàng ngày, thu nhỏ thế giới thành một cộng đồng nhỏ, Camera tự động, vi mạch điện tử máy tính, Internet đang hàng ngày biến đổi to lớn về tri thức, về giáo dục và giải trí. Nhưng cũng trước mắt chúng ta, trên toàn cầu, không có nơi nào chưa bị tấn công, nhiều nơi đã bị khủng bố gây tang thương, vũ khí hạt nhân sẵn sàng nổ khi có tín hiệu. Hàng ngàn, hàng vạn gia đình tan vỡ. Các bà mẹ độc thân nuôi con trong những ngôi nhà không có ông bố bên cạnh để cùng chăm sóc giáo dục. Cảnh bạo lực trên truyền hình đang gia tăng, nhất là ở Mỹ. Trung bình một đứa trẻ xem truyền hình 4 tiếng một ngày thì khi 16 tuổi nó đã xem trên 200.000 cảnh bạo lực, trong đó có 50.000 là cảnh giết người. Ngày càng có nhiều vụ tự tử của trẻ vị thành niên. Vì vậy “Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai” đang trở thành chủ đề có ý nghĩa chiến lược trên toàn cầu. Công ước về quyền trẻ em đã được ghi nhận trên toàn thế giới. Năm 1924, tuyên bố Giơnevơ về quyền trẻ em đã ghi rõ: tất cả đàn ông và phụ nữ của mọi dân tộc có trách nhiệm tạo cho trẻ em điều tốt đẹp nhất, tuyên bố và chấp nhận đó là nhiệm vụ của mình, vượt lên trên mọi sự quan tâm về chủng tộc, quốc tịch và nòi giống; phải tạo cho trẻ em những phương tiện tiên quyết để phát triển một cách bình thường cả thể chất và tinh thần. Đến năm 1959, tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em đã quy định: “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ điều tốt đẹp nhất”, “vì sự phát triển đầy đủ và đồng bộ về nhân cách, trẻ cần có sự yêu thương và hiểu biết. ở bất cứ đâu có thể, trẻ sẽ lớn lên trong sự chăm sóc và với trách nhiệm của cha mẹ, và trong bất cứ trường hợp nào phải được chăm sóc trong bầu không khí yêu thương và an toàn về mặt vật chất và tinh thần: trẻ trong thời kỳ được chăm sóc sẽ không được tách khỏi mẹ của trẻ (nguyên tắc 1, 6 - Tuyên bố Liên hợp quốc về Quyền trẻ em 1959). Người mẹ và người con trong gia đình ngày càng được xã hội và luật pháp quan tâm. Đứa trẻ không mẹ, không gia đình sẽ báo hiệu biết bao sự cố nảy sinh trong cuộc sống xã hội? Chính vì vậy “để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình… trong bầu không khí hạnh phúc,yêu thương và thông cảm”(4) Công ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em - Thông qua ngày 20/11/1989 và có hiệu lực từ ngày 2-9-1990. . Việt Nam, kế tục truyền thống dân tộc “Con hơn cha là nhà có phúc”, Đảng và nhà nước Việt Nam, ngay từ khi mới giành được độc lập, đã khẳng định “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà” và “dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”, “Trước hết, các gia đình (tức là ông, bà, cha mẹ, anh chị) phải làm thật tốt công việc ấy”(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập - Nxb Chính trị Quốc gia, xuất bản lần 2, Hà Nội, 1996, tr.12, tr.451-460. . Năm 1960 đã có phong trào “Toàn dân chăm sóc, giáo dục, thiếu niên, nhi đồng” và từ 1979 bắt đầu thực hiện “Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ở châu á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (1990). Trong chương trình hành động nhằm thực hiện tuyên bố Thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em vào những năm 90, đã nêu rõ “Gia đình có trách nhiệm hàng đầu đối với việc nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em từ lúc tuổi thơ cho tới lúc trưởng thành”(6) (7) Kế hoạch hành động nhằm thực hiện Tuyên bố Thế giới… của trẻ em vào những năm 90” - Việt Nam và Văn kiện quốc tế về Quyền trẻ em. Nxb Chính trị Quốc gia - 1997, trang 230-231. “Phụ nữ với những chức năng khác nhau của họ đóng một vai trò chủ yếu đối với hạnh phúc của trẻ em”(7). Rõ ràng là, gia đình và trẻ em đã không chỉ được in đậm nét trên các văn bản pháp quy trong nước và quốc tế, và là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, mà còn trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhiều nhà khoa học. Gia đình và trẻ em đã trở thành chủ đề trung tâm trong các nghiên cứu của xã hội học, tâm lý học, giáo dục học, nhân chủng học. Đặc biệt, gia đình còn là “trường hợp” trong công tác xã hội. Các nhà công tác xã hội thế giới đã khẳng định: “mặc dù gia đình hiện đại đang thay đổi và nhiều mô hình mới về đời sống gia đình và hôn nhân xuất hiện, gia đình vẫn là hình thức cơ bản nhất của tổ chức trong xã hội và là một yếu tố trọng tâm của công tác xã hội”(8) Introduction to Social work. . Những người làm công tác xã hội luôn luôn tìm hiểu các nguyên tắc làm cơ sở nền tảng cho sự tương tác gia đình, với tư cách là một đơn vị cơ sở, nâng cao chức năng xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội xuất hiện trong các gia đình không cân bằng hoặc có sự khủng hoảng làm cho gia đình bị rạn nứt, tan vỡ. Gia đình và trẻ em là đối tượng thường trực của Công tác xã hội. Công tác xã hội nhấn mạnh tầm quan trọng của gia đình trong việc uốn nắn những lệch chuẩn và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của trẻ. Gia đình là cơ sở để khôi phục những mất mát các chức năng xã hội của trẻ, nhất là trẻ trong các gia đình ly hôn. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về gia đình và trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn. Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của gia đình ly hôn đến trẻ em đã được công bố trên thế giới, mặc dù còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau.ở Việt Nam, những nghiên cứu trong vấn đề này chưa được chú ý. Đồng thời vận dụng các phương pháp và kỹ năng của công tác xã hội trong lĩnh vực này còn bỏ ngỏ. Vì vậy, dựa trên thực tiễn xã hội, đề tài “Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn” sẽ góp phần nhỏ bé trong việc mô tả thực trạng cuộc sống của trẻ em trong các gia đình rơi vào hoàn cảnh ly hôn và vai trò của công tác xã hội trong lĩnh vực này. II. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài. II.1. ý nghĩa khoa học: Chuyên đề này sẽ góp phần tìm hiểu sâu hơn về “gia đình là trường hợp” trong công tác xã hội. Thông qua đó tìm hiểu những vấn đề xã hội đối với trẻ em sau thời kỳ ly hôn và việc vận dụng phương pháp, kỹ năng của công tác xã hội để góp phần trị liệu. II.2. ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở hiểu rõ sự mất mát một số chức năng xã hội của các em do thiếu hụt gia đình, chuyên đề vận dụng một số phương pháp trị liệu để khôi phục và phát triển một chức năng xã hội của các em. iii. mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. III.1. Mục đích nghiên cứu. III.1.1. Tìm hiểu thực trạng trẻ em trong các gia đình sau ly hôn thuộc các hoàn cảnh khác nhau. III.1.2. Đưa ra một kế hoạch trị liệu đối với một số em thuộc các gia đình sau ly hôn. III.2. Nhiệm vụ của chuyên đề. a) Tìm hiểu về gia đình, về hôn nhân, về vai trò, chức năng của gia đình. - Tìm hiểu về quyền trẻ em, về trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. b) Khảo sát và thu thập thông tin, phân tích tình hình ly hôn hiện nay: - Các hoàn cảnh ly hôn và các loại gia đình ly hôn - Hậu quả sau ly hôn: + Cơ cấu xã hội gia đình thay đổi. + Quan hệ gia đình thay đổi. - Thực trạng đời sống của trẻ em trong các gia đình ly hôn. - Cơ cấu xã hội trẻ em trong các gia đình sau ly hôn: + Quan hệ về kinh tế + Quan hệ cha con, mẹ con, ông bà + Quan hệ các thành viên trong gia đình, họ hàng của các em + Quan hệ bạn bè, học đường, cộng đồng. + Xu hướng tư tưởng, tình cảm của các em. + Những thay đổi trong hành vi giao tiếp + Xu hướng hình thành nhân cách của các em. - Một số vấn đề về giải pháp và chính sách xã hội. IV. Đối tượng nghiên cứu, khách thể, phạm vi nghiên cứu và trị liệu. IV.1. Đối tượng nghiên cứu: Một số vấn đề của trẻ em trong các gia đình sau ly hôn. IV.2. Khách thể nghiên cứu: + Thực trạng cuộc sống của các em trong gia đình sau ly hôn. + Các gia đình nuôi dưỡng số trẻ em này như bố dượng, mẹ kế, người thân, các “mái ấm”… + Bố, mẹ đẻ các em. + Cộng đồng nơi các em thuộc các gia đình ly hôn đang sống. + Hệ thống thiết chế có liên quan. IV.3. Phạm vi nghiên cứu: - Giới hạn trong phạm vi tìm hiểu thực trạng đời sống vật chất, tinh thần, sức khoẻ của trẻ em trong gia đình sau ly hôn. - Chỉ khảo sát theo mẫu thuộc một số cơ sở. V. phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. V.1. Cơ sở phương pháp luận. Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn là một hiện tượng xã hội phức tạp liên quan đến nhiều yếu tố, thành phần xã hội và điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội của một xã hội cụ thể. Vì vậy, để nghiên cứu vấn đề này có hiệu quả, tác giả đã vận dụng một trong các quan điểm của triết học Mác-Lênin làm cơ sở phương pháp luận khoa học cho đề tài, đó chính là quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Quan điểm này được rút ra từ hai nguyên lý phổ biến của triết học Mác - Lênin, đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng. Phương pháp luận này đòi hỏi khi xem xét thực trạng trẻ em trong các gia đình sau ly hôn, cần đặt các em trong các hoàn cảnh cụ thể khác nhau thuộc các gia đình khác nhau, các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội. Phương pháp luận này cũng đòi hỏi khi nhìn nhận bối cảnh của các em cần nhìn nhận theo quan điểm phát triển, không nên nhìn nhận theo “số phận” theo bức tranh “bi quan, tuyệt vọng” tách rời sự phát triển chung của xã hội và của mỗi cá nhân. Cùng với việc vận dụng phương pháp luận nói trên, đề tài cũng đã vận dụng lý thuyết về gia đình và hệ thống (system), cấu trúc chức năng (function - structuralism) và lý thuyết vai trò để phân tích đề tài chuyên đề. V.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể. - Phương pháp phân tích tài liệu: Phân tích một số tài liệu về gia đình, về quyền trẻ em, về ly hôn và một số tài liệu thuộc về trị liệu gia đình và các em thuộc các gia đình ly hôn. Chuyên đề cũng đã sử dụng một số tài liệu thống kê, tài liệu xét xử của một số toà án, một số báo cáo của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, một số tài liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Chuyên đề cũng sử dụng một số tài liệu trong một số tạp chí “Khoa học về phụ nữ” từ năm 2000 đến năm 2001. Chuyên đề này đã khai thác một phần nguồn tư liệu điều tra xã hội học thực nghiệm về gia đình mà tác giả đã tham gia với Thạc sĩ Lê Xuân Hoàn và nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Thanh niên, chủ yếu là nghiên cứu trường hợp tại Hà Nội kết hợp so sánh với Hà Nam và Sơn La. - Phương pháp khảo sát theo mẫu bằng bảng hỏi: Phương pháp phỏng vấn dựa trên phỏng vấn cấu trúc. Bảng hỏi được xây dựng thống nhất đối với các địa danh. Thông tin thu được từ bảng hỏi được xử lý theo chương trình SPSS for Window 10.05. Mỗi điểm nghiên cứu được xử lý thành tập dữ liệu riêng, sau đó kết hợp phân tích, tổng hợp và so sánh với những tương quan về việc trẻ em sống với ai và sống như thế nào sau khi bố mẹ ly hôn. - Phương pháp phỏng vấn sâu: Phương pháp này sẽ phỏng vấn một số em thuộc một số gia đình ly hôn, một số cha mẹ, người thân có liên quan đến các em thuộc gia đình ly hôn, một số cán bộ địa phương, cộng đồng hiểu sâu về vấn đề này. Trong các phương pháp nghiên cứu, tác giả chú trọng phương pháp nghiên cứu định tính, bởi vì nghiên cứu về ly hôn và các em trong các gia đình sau ly hôn đòi hỏi đi sâu tìm hiểu và phân tích mới có hiệu quả. Trong nghiên cứu định tính, tác giả sử dụng phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, kết hợp phỏng vấn chuyên gia. Ngoài ra, việc kết hợp nghiên cứu và khảo sát bổ sung tại một xã ở Hà Nội có ý nghĩa sâu sắc trong việc nghiên cứu đề tài này. Nghiên cứu và khảo sát tại một số xã được tiến hành toàn diện: bao gồm tất cả các gia đình ly hôn trong xã, các trẻ em thuộc các gia đình đó và vai trò các tổ chức chính quyền địa phương, tổ chức cộng đồng, các tổ chức xã hội trong vấn đề này. Căn cứ vào mô hình phân tích đã trình bày trên đây, tác giả sử dụng các biến số sau đây để tìm hiểu thực trạng trẻ trong các gia đình sau ly hôn: - Biến số độc lập. + Nơi ở và điều kiện kinh tế nơi ở, tuổi, trình độ học vấn, khoảng thời gian bố mẹ ly hôn. - Biến số phụ thuộc: Thực trạng đời sống của các em trong các gia đình sau ly hôn: ăn ở, sức khoẻ, học hành, văn hoá tinh thần, quan hệ xã hội. - Biến số can thiệp: vai trò của các tổ chức chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội ở địa phương. Địa bàn nghiên cứu: chuyên đề chọn địa bàn Hà Nội kết hợp so sánh với địa bàn Hà Nam và Sơn La. Riêng Hà Nội, khảo sát toàn diện xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội và đây cũng là cơ sở lựa chọn để xây dựng và thực hiện kế hoạch trị liệu trong công tác xã hội. Mẫu nghiên cứu: Cùng với việc sử dụng kết quả thống kê của cơ quan nhà nước, một số báo cáo của cơ quan nhà nước, tác giả dùng phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên, dung lượng mẫu, cơ cấu mẫu cụ thể như sau: Về địa danh: Nơi ở Tần suất Tỉ lệ % Hà Nam 29 32,2 Hà Nội 31 34,4 Sơn La 30 33,3 Tổng 90 100 Về khoảng tuổi: Khoảng tuổi Tần suất Tỉ lệ % Dưới 6 tuổi 5 5,6 Từ 6-11 tuổi 34 37,8 Từ trên 11-15 tuổi 42 46,7 Trên 15 tuổi 9 10 Tổng 90 100 VI. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết VI.1. Giả thuyết nghiên cứu VI.1.1. Gia đình ly hôn tất yếu dẫn đến sự thay đổi cơ cấu gia đình, quan hệ gia đình và tạo nên sự khủng hoảng toàn diện đến đời sống trẻ em, hạn chế nhiều mặt trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của các em. VI.1.2. Gia đình ly hôn ngày càng tăng làm cho trẻ em trong các gia đình ly hôn ngày càng tăng và trở thành vấn đề xã hội. VI.2. Khung lý thuyết Đặc điểm điều kiện kinh tế - văn hoá - xã hội Các loại gia đình ly hôn và vấn đề XH nảy sinh Các loại hình ly hôn và thực trạng đời sống trẻ em trong các gia đình sau ly hôn Sức khoẻ trẻ em Học tập của các em Đời sống văn hoá tinh thần Đời sống vật chất Quan hệ xã hội Giải pháp và chính sách Khung lý thuyết trên đây là sự tổng hợp các mối tương quan giữa các sự kiện xã hội, các khái niệm và các biến số. Trong đó, đặc điểm kinh tế - văn hoá - xã hội là biến số độc lập, nó chi phối các biến số phụ thuộc. Các loại gia đình là biến số trung gian, còn các loại hình ly hôn và thực trạng đời sống trẻ em các gia đình ly hôn là biến số phụ thuộc. Phần II - nội dung nghiên cứu Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài I.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và trị liệu. Gia đình, ly hôn, trẻ em nói chung, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau: xã hội học, dân tộc học, sử học, nhân chủng học, luật học… Goode, William J. trong “Force and Violence in the Family” “Sức mạnh và bạo lực trong gia đình” (1971) đã đưa ra một số chuẩn mực để xác định gia đình dựa trên các mối quan hệ bên trong gia đình. A.G. Kharchep trong “Hôn nhân và gia đình” cũng đã coi “gia đình là một hệ thống cụ thể lịch sử của các quan hệ qua lại giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái”. Bà E.K. Vaixilieva và bà N.A. Maliarova đã nghiên cứu và đề cập nhiều đến lối sống gia đình. Các nhà nghiên cứu đã đề cập đến lối sống gia đình cho phép hiểu được mối tương quan của sự hoạt động của các thành viên trong gia đình, lối sống gia đình cũng gắn liền với lối sống cá nhân với
Luận văn liên quan