Môi trường có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế và sự sống của con người, bởi vì nó không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên đầu vào cho sản suất, tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ phế thải sản suất, phế thải xây dựng, dịch vụ và phế thải sinh hoạt do con người thải ra
Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng qua hơn 20 năm đổi mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp xang cơ chế thị trường. Những thành tựu quan trọng đạt được về kinh tế - xã hội đã chứng minh tinh đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng. Mọi tiềm năng ẩn dấu trong các thành phần kinh tế đã được khai thác; các nguồn lực của tự nhiên cũng đã được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, an ninh chính trị được giữ vững, đời sống của nhân dân được nâng cao. Nhờ đó vấn đề môi trường, vệ sinh môi trường cũng được an toàn hơn khi có những chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, giảm dần những tác hại xấu ảnh hưởng đến môi trường ảnh hưởng đến con người
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thực hiện cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhung do chưa kết hợp chặt chẽ với vấn đề bảo vệ môi trường nên cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường. Nhiều loại tài nguyên môi trường như: đất, nước, không khí, rừng đã bị ô nhiễm, suy kiệt đến mức báo động, gây tác động không nhỏ đến đời sống xã hội. Đặc biệt là tại các thành phố lớn, những nơi tập trung đông dân cư, các khu công nghiệp vấn đề vệ sinh môi trường luôn là những vấn đề cấp bách và luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của đông đảo người dân.
25 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 3252 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN
MÔN: DỊCH VỤ CÔNG
Đề tài: “Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường”.
LỜI MỞ ĐẦU
Môi trường có vai trò hết sức quan trọng đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế và sự sống của con người, bởi vì nó không chỉ cung cấp nguồn tài nguyên đầu vào cho sản suất, tiện nghi sinh hoạt cho con người mà còn là nơi chứa và hấp thụ phế thải sản suất, phế thải xây dựng, dịch vụ và phế thải sinh hoạt do con người thải ra
Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng qua hơn 20 năm đổi mới chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp xang cơ chế thị trường. Những thành tựu quan trọng đạt được về kinh tế - xã hội đã chứng minh tinh đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng. Mọi tiềm năng ẩn dấu trong các thành phần kinh tế đã được khai thác; các nguồn lực của tự nhiên cũng đã được sử dụng một cách có hiệu quả hơn, an ninh chính trị được giữ vững, đời sống của nhân dân được nâng cao. Nhờ đó vấn đề môi trường, vệ sinh môi trường cũng được an toàn hơn khi có những chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường, giảm dần những tác hại xấu ảnh hưởng đến môi trường ảnh hưởng đến con người
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thực hiện cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhung do chưa kết hợp chặt chẽ với vấn đề bảo vệ môi trường nên cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực đến môi trường. Nhiều loại tài nguyên môi trường như: đất, nước, không khí, rừng đã bị ô nhiễm, suy kiệt đến mức báo động, gây tác động không nhỏ đến đời sống xã hội. Đặc biệt là tại các thành phố lớn, những nơi tập trung đông dân cư, các khu công nghiệp vấn đề vệ sinh môi trường luôn là những vấn đề cấp bách và luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và của đông đảo người dân.
Với việc tìm hiêu và nghiên cứu về đề tài cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường nhóm sinh viên chúng tôi sẽ cho bạn đọc thấy được sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở nước ta đồng thời sẽ chỉ ra cho mọi người thấy được thực trạng của vấn đề vệ sinh môi trường ở nước ta hiện nay như thế nào để rồi cùng đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm ngăn chặn cũng như là để bảo vệ cảnh quan đô thị, cảnh quan nông thôn hay nói theo cách khác thì là bảo vệ chính môi trường sống của tất cả chúng ta
NỘI DUNG CHÍNH
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Lý luận chung về cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
Dịch vụ công (từ tiếng Anh là "public service") có quan hệ chặt chẽ với phạm trù hàng hóa công cộng. Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc tính cơ bản như:
a. Là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc sử dụng nó;
b. Việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của người khác;
c. Và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì hàng hóa công cộng vẫn tồn tại. Nói một cách giản đơn, thỉ những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào không thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy.
Theo quan niệm của nhiều nước, dịch vụ công luôn gắn với vai trò của nhà nước trong việc cung ứng các dịch vụ này.
Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công cộng. Cách tiếp cận khác xuất phát từ đối tượng được hưởng hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hànhcung ứng các dịch vụ ấy có thể do Nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm hoặc cả tư nhân và nhà nước cùng đảm nhiệm cung cấp.
Khái niệm và phạm vi dịch vụ công có sự biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ quốc phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế xã hội (như tạo việc làm, quy hoạch, bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, bảo hiểm xã hội,...). Trong khi đó, Pháp và Italia đều quan niệm dịch vục công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân do các cơ quan Nhà nước đảm nhiệm hoặc do các tổ chức tư nhân thực hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. Tuy vậy, ở mỗi nước lại có nhận thức khác nhau về phạm vi của dịch vụ công. Ở Pháp, khái niệm dịch vụ công được hiểu rộng, bao gồm không chỉ các hoạt động phục vụ nhu cầu về tinh thần và sức khoẻ của người dân (như giáo dục, văn hoá, y tế, thể thao thường được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời sống dân cư mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường,... thường được gọi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính công, bao gồm hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch, mà cả hoạt động thuế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng còn ở Italia dịch vụ công được giới hạn chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện, nước sạch, vệ sinh môi trường) và các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện.
Ở Việt Nam, tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của Nhà nước. Tức là Nhà nước không độc quyền cung cấp các dịch vụ công mà trái lại Nhà nước hoàn toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc cung ứng của một số dịch vụ, như y tế, giáo dục, cấp thoát nước, cho khu vực phi nhà nước thực hiện.
Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội, của cộng đồng dân cư và nhà nước có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ này cho xã hội. Ngay cả khi nhà nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường.
Từ những tính chất trên đây, dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động dịch vụ của các tổ chức nhà nước hoặc của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định, phục vụ những nhu cầu thiết yếu chung của cộng đồng, công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi, đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội.
2. Đặc điểm của dịch vụ công
Mặc dù các dịch vụ công rất đa dạng và phong phong phú cả về hình thức và tính chất nhưng cũng đều mang một số đặc điểm sau:
w Dịch vụ công mang tính xã hội là dịch vị phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cả cộng đồng, phục vụ các đối tượng xã hội một cách công bằng, không hướng tới phục vụ một nhóm hay một cá nhân cá biệt trong xã hội.
w Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ công để đảm bảo quá trình cung ứng dịch vụ công theo định hướng của nhà nước, đáp ứng đòi hỏi của các công dân và xã hội.
w Việc cung ứng dịnh vụ công có thể do cơ quan nhà nước (có thể là cơ quan công quyền hoặc dơn vị sự nghiệp hay doanh nghiệp nhà nước) đảm nhiệm hoặc nhà nước có thể ủy quyền cung ứng cho các đơn vị nhà nước.
w Cung ứng dịch vụ công không hoàn toàn diễn ra theo quan hệ thị trường.
3. Các loại dịch vụ công
Dựa vào cách phân loại dịch vụ và xét theo lĩnh vực cung ứng dịch vụ công có thể chia dịch vụ công thành các loại như sau:
1/ Dịch vụ công trong lĩnh vực sự nghiệp.
2/ Dịch vụ công trong lĩnh vực công ích.
3/ Dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính nhà nước.
Dịch vụ công trong lĩnh vực công ích lại bao gồm các mảng như :
w Dịch vụ giao thông công cộng;
w Dịch vụ cung cấp điện;
w Dịch vụ cung cấp nước sạch;
w Dịch vụ vệ sinh môi trường;
w Dịch vụ khuyến nông - lâm - ngư - thủy lợi.
Vậy dịch vụ công ích là gì?
Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: dịch vụ vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai... chủ yếu do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do khu vực tư nhân đứng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyên rác thải ở một số đô thị nhỏ, cung ứng nước sạch ở một số vùng nông thôn
Như vậy thì ta đã biết được rằng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường là nằm trong dịch vụ công trong lĩnh vực công ích.
Vậy để hiểu rõ hơn nữa nhóm chúng tôi sẽ trực tiếp đi vào tìm hiểu phần cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường.
4. Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường
4.1. Các khái niệm
* Môi trường là gì?
Theo Luật bảo vệ môi trường của nước ta ban hành ngày 10/1/1994 thì môi trường được đĩnh nghĩa như sau: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người ,có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.
* Vệ sinh môi trường là gì?
Vệ sinh môi trường là việc gìn giữ ,duy trì và đảm bảo môi trường sống xung quanh chúng ta.
* Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường là gì?
Theo từ điển: Dịch vụ là những hoạt động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt.
Theo lý thuyết kinh tế học hiện đại: Dịch vụ là những hoạt động mang tính phục vụ chuyên nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người, của xã hội.
Vậy cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường chính là những hoạt động cung cấp các dịch vụ cần thiết có liên quan đến lĩnh vực vệ sinh môi trường nhằm đem lại cho con người và các hoạt động kinh doanh sản xuất có một môi trường đảm bảo để tồn tại và phát triển.
4.2. Cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường bao gồm những mảng sau:
- Dịch vụ thu gom xử lý chất thải, rác thải, nước thải.
- Dịch vụ cảnh quan môi trường.
Việt nam đang tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong nhiều năm qua. Cùng với tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh, mạnh vấn đề quản lý rác thải, chất thải trong đó có rác thải nói chung, chất thải rắn ở đô thị, chất thải công nghiệp và một số nghành khác nói riêng, đặc biệt là chất thải độc hại, nguy hiểm, đang là những vấn đề nan giải trong công tác bảo vệ môi trường và sức khỏe của người dân.
4.3. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường và công tác vệ sinh môi trường
Đảng và nhà nước ta chỉ rõ bảo vệ môi trường và công tác vệ sinh môi trường là một trong những vẫn đề sống còn của nhân loại là nhân tố đẩm bảo sức khỏe và chất lượng cuộc sống của người dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Một số quan điểm và định hướng của đảng và nhà nước về vấn đề môi trường:
* Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường. Công tác vệ sinh môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước.
* Tổ chức kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường; xác định rõ những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân; đề ra các giải pháp cụ thể để thực hiện tốt các nhiệm vụ trong Nghị quyết 41 và Chỉ thị này; đưa nội dung kiểm điểm công tác bảo vệ môi trường vào báo cáo tổng kết, đánh giá định kỳ của cơ quan, đơn vị.
* Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng và ban hành quy định bồi thường thiệt hại về môi trường. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến cơ sở ; bảo đảm ở cấp huyện có bộ phận quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa các cấp, các ngành. Không phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường. Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Quản lý chặt chẽ chất thải, nhất là các chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ, y tế, nghiên cứu khoa học; chấm dứt nạn đổ phế liệu, xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vào các sông, kênh, rạch, hồ ao. Thu gom và xử lý toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng các biện pháp thích hợp; ưu tiên việc tái chế, tái sử dụng, hạn chế tối đa việc chôn lấp. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư do chất thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề, các khu vực bị nhiễm độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời những cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng trong khu dân cư nhưng không có biện pháp khắc phục có hiệu quả. Thực hiện kế hoạch phục hồi và cải thiện môi trường tại các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái nặng. Thực hiện việc đánh giá công nghệ sản xuất của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm không đưa vào nước ta công nghệ cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng nhập khẩu phế liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
* Đẩy mạnh xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, có cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức, cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường. Xây dựng và phát triển lực lượng tình nguyện viên bảo vệ môi trường. Tăng cường sự giám sát của cộng đồng, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng đối với bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Phát triển các dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải và các dịch vụ khác bảo vệ môi trường với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá, tư vấn, giám định, chứng nhận về bảo vệ môi trường; thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trường đủ mạnh để giải quyết các vấn đề môi trường lớn, phức tạp của đất nước.
* Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường xuyên từ ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư bảo vệ môi trường; tăng tỉ lệ đầu tư cho môi trường trong nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện việc thu phí, ký quỹ bảo vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động môi trường.
* Nghiên cứu xây dựng các luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, dự báo, cảnh báo về tài nguyên, môi trường; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, sự cố môi trường và biến đổi khí hậu. Hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường. Tăng cường sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, các sản phẩm thân thiện với môi trường.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Sự cần thiết phải cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở nước ta
Cùng với quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Đời sống của nhân dân liên tục được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh các thành công thì Việt Nam cũng đang đối mặt với các vấn đề môi trường nảy sinh, đặc biệt là sự xuống cấp của chất lượng môi trường. Ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên đang diễn ra gay gắt với mức độ phức tạp ngày càng gia tăng, làm thiệt hại lớn về kinh tế và gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng khác. Yêu cầu cấp thiết đang đặt ra là cần phải phát triển dịch vụ môi trường để hạn chế đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực về môi trường nảy sinh.
Thực tế cho thấy, thời gian qua Nhà nước vẫn đang phải dành một nguồn kinh phí không nhỏ nhằm hỗ trợ các hoạt động về bảo vệ môi trường. Đây không chỉ là đòi hỏi yêu cầu tự thân trong nước do những hệ quả không mong muốn từ mục tiêu đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế mà Việt Nam đang thực hiện. Mà thông lệ quốc tế với những đòi hỏi khắt khe phải cam kết thực hiện ngày càng nhiều hơn các quy định quốc tế về môi trường cũng là hướng chúng ta phải thực hiện. Đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ môi trường ở 5 phân ngành trong WTO (Dịch vụ xử lý nước thải; Dịch vụ xử lý rác thải; Dịch vụ làm sạch khí thải; Dịch vụ xử lý tiếng ồn và Dịch vụ đánh giá tác động của môi trường). Do vậy, phát triển dịch vụ môi trường đang là một nhu cầu hết sức cấp thiết ở Việt Nam. Nhu cầu này mang tính khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế nước ta hiện nay.
Trong khi đó, lĩnh vực dịch vụ môi trường nước ta còn kém phát triển, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế, năng lực cung cấp dịch vụ và chất lượng dịch vụ còn thấp, khu vực tư nhân tham gia chưa nhiều vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý cho hoạt động này chưa hoàn thiện, thị trường dịch vụ môi trường mới manh nha, phân tán, mức độ độc quyền còn cao, Nhà nước vẫn phải bao cấp lớn cho hoạt động bảo vệ môi trường
Trong bối cảnh đó, việc định hướng chiến lược phát triển dịch vụ môi trường sẽ một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ môi trường trong nước có đủ thời gian và những lợi thế để phát triển, mặt khác thu hút đầu tư nước ngoài, tranh thủ kinh nghiệm để bổ sung nguồn lực phát triển lĩnh vực này.
2. Thực trạng cung ứng dịch vụ vệ sinh môi trường ở Việt Nam
2.1. Chủ thể cung ứng dịch vụ
Nhà nước có trách nhiệm can thiệp vào quá trình cung ứng dịch vụ công để đảm bảo quá trình cung ứng dịch vụ công theo định hướng của nhà nước, đáp ứng đòi hỏi của các công dân và xã hội.
Việc cung ứng dịnh vụ công có thể do cơ quan nhà nước (có thể là cơ quan công quyền hoặc dơn vị sự nghiệp hay doanh nghiệp nhà nước) đảm nhiệm hoặc nhà nước có thể ủy quyền cung ứng cho các đơn vị nhà nước.
2.2. Chất lượng cung ứng dịch vụ
Theo yêu cầu của Luật Bảo vệ môi trường 2005, tất cả các loại hình chất thải từ mọi loại nguồn thải đều phải được xử lý trước khi thải ra môi trường. Tuy nhiên phần lớn chất thải ở nước ta hiện nay chưa tuân thủ được yêu cầu này và nhu cầu phát triển các dịch vụ môi trường là rất lớn bao gồm xử lý nước thải, rác thải, khí thải, tiếng ồn từ các nguồn thải sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nhu cầu xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại Theo Báo cáo diễn biến môi trường 2004, mỗi năm tại Việt Nam có hơn 15 triệu tấn chất thải rắn phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Khoảng hơn 80% số này (tương đương 12,8 triệu tấn/năm) là chất thải phát sinh từ các hộ gia đình, các nhà hàng, khu chợ và khu kinh doanh. Tổng lượng chất thải phát sinh từ các cơ sở côn