Đề tài Đa dạng sinh học ở Việt Nam - Thực Trạng & Giải Pháp

Việt Nam được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối, rạn san hô. tạo nên môi trường sống cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã trên thế giới.  Việt Nam được Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) công nhận có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật.  Việt Nam còn là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của nhiều loại cây trồng, vật nuôi như có hàng chục giống gia súc và gia cầm. Đặc biệt các nguồn lúa và khoai, những loài được coi là có nguôn gốc từ Việt Nam, đang là cơ sở cho việc cải tiến các giống lúa và cây lương thực trên thế giới.  Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, 21.017 loài thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng để cung cấp vật liệu di truyền. Cụ thể, hệ động thực vật của Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo đặc trưng cho vùng Đông Nam Á với 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 1.030 loài rêu, 2.500 loài tảo, 826 loài nấm, và 21.000 loài động vật, trong đó có 310 loài thú, 840 loài chim, 286 loài bò sát, 3.170 loài cá, 7.500 loài côn trùng và các động vật xương sống khác.Trong 30 năm qua, nhiều loài động thực vật được bổ sung vào danh sách các loài của Việt Nam như 5 loài thú mới là sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, chà vá chân xám và thỏ vằn Trường Sơn, 3 loài chim mới là khướu vằn đầu đen, khướu Ngọc Linh và khướu Kon Ka Kinh, khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển. Nhiều loài mới khác thuộc các lớp bò sát, lưỡng cư và động vật không xương sống. Về thực vật, tính từ năm 1993 đến năm 2002, các nhà khoa học đã ghi nhận thêm 2 họ, 19 chi và trên 70 loài mới. Tỷ lệ phát hiện loài mới đặc biệt cao ở họ Lan có 3 chi mới và 62 loài mới; 4 chi và 34 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam. Ngành hạt trần có 1 chi và 3 loài mới lần đầu tiên phát hiện trên thế giới; 2 chi và 12 loài được bổ sung vào danh sách thực vật của Việt Nam.

doc28 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 11298 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đa dạng sinh học ở Việt Nam - Thực Trạng & Giải Pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Việt Nam được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới, với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối, rạn san hô... tạo nên môi trường sống cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã trên thế giới. Việt Nam được Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã (WWF) công nhận có 3 trong hơn 200 vùng sinh thái toàn cầu; Tổ chức bảo tồn chim quốc tế (Birdlife) công nhận là một trong 5 vùng chim đặc hữu; Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới (IUCN) công nhận có 6 trung tâm đa dạng về thực vật. Việt Nam còn là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của nhiều loại cây trồng, vật nuôi như có hàng chục giống gia súc và gia cầm. Đặc biệt các nguồn lúa và khoai, những loài được coi là có nguôn gốc từ Việt Nam, đang là cơ sở cho việc cải tiến các giống lúa và cây lương thực trên thế giới. Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, 21.017 loài thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng để cung cấp vật liệu di truyền. Cụ thể, hệ động thực vật của Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo đặc trưng cho vùng Đông Nam Á với 11.373  loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 1.030 loài rêu, 2.500 loài tảo, 826 loài nấm, và 21.000 loài động vật, trong đó có 310 loài thú, 840 loài chim, 286 loài bò sát, 3.170 loài cá, 7.500 loài côn trùng và các động vật xương sống khác.Trong 30 năm qua, nhiều loài động thực vật được bổ sung vào danh sách các loài của Việt Nam như 5 loài thú mới là sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, chà vá chân xám và thỏ vằn Trường Sơn, 3 loài chim mới là khướu vằn đầu đen, khướu Ngọc Linh và khướu Kon Ka Kinh, khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển. Nhiều loài mới khác thuộc các lớp bò sát, lưỡng cư và động vật không xương sống. Về thực vật, tính từ năm 1993 đến năm 2002, các nhà khoa học đã ghi nhận thêm 2 họ, 19 chi và trên 70 loài mới. Tỷ lệ phát hiện loài mới đặc biệt cao ở họ Lan có 3 chi mới và 62 loài mới; 4 chi và 34 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam. Ngành hạt trần có 1 chi và 3 loài mới lần đầu tiên phát hiện trên thế giới; 2 chi và 12 loài được bổ sung vào danh sách thực vật của Việt Nam. A: THỰC TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VIỆT NAM: Vào thời điểm mà ai cũng có thể tin rằng toàn bộ động vật trên thế giới đã được khoa học mô tả hết, con Sao La (Pseudoryx nghetinhensis), một loài sừng rỗng cổ, và hoẵng lớn (Megamuntiacus vuquangensis), to gần gấp 2 lần con hoẵng thường, cho thấy rằng mặc cho con người đã sử dụng quá mức sinh sản tự nhiên của Việt Nam, công tác bảo vệ hữu hiệu có thể giúp bảo quản những loài đặc hữu và có giá trị. Cùng với việc xác định loài bò xám, một loài bò hoang, đầu thế kỷ này, Việt Nam là một nước có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao được quốc tế biết đến. Tuy nhiên, số lớn những loài thú, chim và bò sát bị đe doạ hoặc nguy cấp được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam (MOSTE, 1992) là một vấn đề rất được quan tâm. Tổng số lượng những loài bị đe doạ là cao đối với một nước và phản ánh tình trạng nghiêm trọng về sự đe dọa đối với sinh cảnh hoang dại ở Việt Nam. Những loài như là trâu rừng, hươu Eld, tê giác Sumatra và trĩ Edwards đã trở nên tuyệt trủng ở Việt Nam thế kỷ này, và không có hành động bảo tồn khẩn cấp, voi châu Á, tê giác Java và loài sao la mới được phát hiện cũng có một tương lai tương tự không xa. Vào thời điểm mà ai cũng có thể tin rằng toàn bộ động vật trên thế giới đã được khoa học mô tả hết, con Sao La (Pseudoryx nghetinhensis), một loài sừng rỗng cổ, và hoẵng lớn (Megamuntiacus vuquangensis), to gần gấp 2 lần con hoẵng thường, cho thấy rằng mặc cho con người đã sử dụng quá mức sinh sản tự nhiên của Việt Nam, công tác bảo vệ hữu hiệu có thể giúp bảo quản những loài đặc hữu và có giá trị. Cùng với việc xác định loài bò xám, một loài bò hoang, đầu thế kỷ này, Việt Nam là một nước có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao được quốc tế biết đến. Tuy nhiên, số lớn những loài thú, chim và bò sát bị đe doạ hoặc nguy cấp được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam (MOSTE, 1992) là một vấn đề rất được quan tâm. Tổng số lượng những loài bị đe doạ là cao đối với một nước và phản ánh tình trạng nghiêm trọng về sự đe dọa đối với sinh cảnh hoang dại ở Việt Nam. Những loài như là trâu rừng, hươu Eld, tê giác Sumatra và trĩ Edwards đã trở nên tuyệt trủng ở Việt Nam thế kỷ này, và không có hành động bảo tồn khẩn cấp, voi châu Á, tê giác Java và loài sao la mới được phát hiện cũng có một tương lai tương tự không xa. Rừng cũng là tài nguyên kinh tế trực tiếp của đất nước. Khoảng 1,4 triệu m3 gỗ được các lâm trưởng quốc doanh khai thác hàng năm. Tuy vậy, một số lượng lớn hơn được các lâm trường địa phương khai thác mà chúng ta không có con số chính xác, ước tính khoảng 3 triệu m3 một năm. Thu hái khoảng 30 triệu bó củi hàng năm trong phạm vi sản lượng lý thuyết 22 - 23 triệu tấn có thể khai thác từ rừng tự nhiên, nhưng gỗ củi không chỉ được thu hái vừa phải ở những khu rừng mà nó thường xuyên được khai thác quá mức ở các địa phương, dẫn đến thu hẹp diện tích rừng và rừng bị xuống cấp. Các vùng nước ven biển và cửa sông của Việt Nam là nơi tụ hội rất nhiều nguồn cá lớn. Sự giàu có này được thể hiện bởi một thực tế là ngành thuỷ sản cung cấp một nửa lượng chất đạm động vật của quốc gia . Mặc dầu 1.07 triệu tấn sản lượng hải sản thu hoạch năm 1992 nằm trong sản lượng ước tính tối đa cho phép là 1,2 - 1,3 triệu tấn, thực tế là tổng năng lực tàu đánh cá của Việt Nam đã tăng gấp đôi từ năm 1983 là một bằng chứng cho thấy nguồn tài nguyên này đang có thể đương đầu với việc sử dụng không được quản lý hợp lý. I: ĐA DẠNG MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM: 1: ĐIÊU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN CỦA VIỆT NAM: Việt Nam có tổng diện tích là 330.541 km2 và trải dài suốt dọc bờ biển đông nam Châu á với chiều dài khoảng 100 km từ 8030' vĩ độ Bắc xuống tận cực Nam ở 230 vĩ độ Bắc Bắc bán cầu. Ba phần tư lãnh thổ là núi đồi với những đỉnh cao trên 300m trên mặt nước biển trung bình. Nước Việt Nam có hình chữ S với những đồng bằng châu thổ rộng lớn ở miền Nam (sông Mê Kông) và miền Bắc (sông Hồng) nối với nhau bởi phần miền Trung ven biển, nhiều núi và hẹp. Nơi hẹp nhất chỉ có 50km rộng và Việt Nam có đường biên giới dài (3700 km). Hầu hết trên lãnh thổ sông đổ trực tiếp ra biển chỉ riêng một số phần ở cao nguyên miền Trung đổ sang phía Tây vào lưu vực sông Mê Kông của Cămpuchia. Khí hậu thay đổi theo độ cao . Nhiệt độ trung bình ở miền Nam là 270C trong khi ở miền Bắc chỉ có 210C. Cứ 100m độ cao nhiệt độ giảm khoảng 0,50C. Hầu hết cả nước nhận khoảng 2000 mm mưa hàng năm, chỉ có một vài nơi miền Trung lượng mưa lên tới 3000. Lượng mưa bị tác động bởi ba đợt gió mùa chính. Gió mùa đông khá lạnh và khô thổi từ hướng đông bắc và chỉ tác động đến vĩ độ 160 Bắc về phía Nam. Gió mùa đông nam và gió mùa tây thổi vào các tháng mùa hè mang mưa từ biển vào. Lượng nắng chiếu khá cao, trung bình khoảng 130 kcal/cm2/năm mang lại cho đất nước này sản lượng nông nghiệp và thiên nhiên cao. Hầu hết vùng núi là đất đỏ, trên núi cao có đất mùn và thung lũng sông và đồng bằng châu thổ có đất phù sa phì nhiêu. Các vùng đá vôi có đất bazan và ở một vài vùng ven biển đất cát nhiều. Ở một vài vùng đồng bằng có đất chua phèn. Với sự biến đổi lớn về vĩ độ, đọ cao và tính đa dạng về kiểu đất, thay đổi từ đầm lầy, đồng bằng đến vỉa đá vôi và núi cao đã mang lại cho đất nước sự biến đổi lớn về môi trường tự nhiên và tính đa dạng sinh học cao. Mật độ dân cư tạo nên áp lực nghiêm trọng đối với đất. 2: CÁC LOÀI THỰC VẬT TRÊN ĐẤT LIỀN: Việt Nam rất phong phú về các loài thực vật tự nhiên. Trong một vài trường hợp hầu như tất cả chúng đều bị hoạt động của con người làm cho thay đổi. Chúng gồm có: Rừng ngập mặn: Những hệ thống phức tạp nguyên gốc xuất phát từ miềm Nam và các hệ thống đã bị khai thác khá nhiều trở nên đơn giản ở miền Bắc. Rừng chàm: Phát triển trên đất than bùn ở đồng bằng sông Mê Kông. Có thể trước đây đã được thấy ở đồng bằng sông Hồng. Những khu rừng này đã tự thay thế bằng rừng thứ sinh và những khu rừng trên đầm lầy than bùn đã trở nên phong phú hơn do những chồi non mới mọc lên trên gốc cây của những khu rừng già cỗi. Rừng đầm lầy trên những vùng đất nước ngọt: Những khu rừng ngập nước theo chu kỳ ở những khu đất thấp miền nam Việt Nam và một số mảng rừng nhỏ ở miền Bắc. Rừng mưa mùa: Bao gồm rừng khộp cao nguyên miền Trung cũng như một số rừng khô ven biển ở miền đông nam bộ. Rừng lá rộng thường xanh/nửa rụng lá đất thấp: Rừng nhiệt đới ở miền Nam, á nhiệt đới ở miền Bắc. Một số khu vẫn còn trong điều kiện nguyên thuỷ. Rừng thường xanh trên núi/rừng lá rộng nửa thường xanh: Còn tìm thấy những cánh rừng lẻ ở một vài tỉnh. Rừng trên hệ núi đá vôi: Rừng thuần loại kết hợp với đất pha đá vôi. Hầu hết còn lại những khu đá tai mèo không thích hợp cho canh tác nông nghiệp ở nhiều nơi rừng đã bị xuống cấp do cháy rừng, khai thác gỗ và khai khoáng. Rừng thường xanh trên núi cao và rừng thông hỗn giao: Phần lớn phân bố ở cao nguyên Đà Lạt, vùng núi miền trung và phía Bắc dãy Hoàng Liên Sơn với những khoảnh rừng thay đổi mang dấu ấn địa phương và tính đặc hữu của khu vực cao. Thực vật ở khu: xen kẽ ở những đỉnh núi cao nhất, đặc biệt là dãy Hoàng Liên Sơn bắc Việt Nam. Trên những triền dốc cao ở Hoàng Liên Sơn nơi núi nhấp nhô bị mây che phủ những vùng rộng, những loài thực vật ở đây đặc biệt ưa nước. 3: CÁC ĐƠN VỊ ĐỊA SINH HỌC: Có thể dễ dàng chia Việt Nam thành một số các đơn vị địa sinh học đất liền (đơn vị sinh học) trên cơ sở sự khác nhau về tổ hợp loài và các giới hạn phân bố các loài chỉ thị. Dải núi chính Trường Sơn đóng vai trò như một vật cản ngăn cách hai vùng rừng ẩm hơn ở miền Đông và khô hơn ở miền Tây đổ xuống đơn vị sinh học lưu vực sông Mê Kông. Các phần cao hơn của dải núi bao gồm một số loài đặc hữu và những loài phụ mà bản thân chúng đã có thể coi là một đơn vị sinh học và vì thế có thể tiếp tục chia chúng thành đơn vị nhỏ đặc thù như Cao nguyên Đà Lạt và Cao nguyên miền Trung. Ở miền nam, đồng bằng châu thổ sông Mê Kông vẫn còn những nét rất đặc thù về phương diện sinh học trải từ những vùng đồi núi ra mãi tận phía đông. Một đơn vị tự nhiên khác được xem xét là đèo Bạch Mã - Hải Vân, đèo này đã chia tách vùng nhiệt đới nam trung bộ Việt Nam ra khỏi vùng cận nhiệt đới bắc trung bộ. Đèo tạo nên một đơn vị khí hậu và động vật được phản ánh trong sự phân bố của các loài. Bắc Việt Nam (được biết về sinh học là Bắc bộ) cho thấy một vài khu vực ở những mức độ khác nhau được phân chia bởi các con sông lớn (sông Đà, sông Mã, sông Cả, v.v...). Sự phân bố các loài thú linh trưởng và một số loài chim đặc hữu cho thấy tầm quan trọng của những con sông này làm ranh giới cho các loài động vật. Cuối cùng là dãy Hoàng Liên Sơn với những ngọn núi cao ở Tây Bắc đất nước cũng là một đơn vị đặc thù nối với dãy núi Hengduan của Trung Quốc, phía đông dải Hymalaya . Những dãy núi này cao hơn dãy nũi nối ở lãnh thổ Việt Nam rất nhiều và cho ta thấy một hệ động thực vật hoàn toàn khác biệt. 4: MÔI TRƯỜNG BIỂN VÀ VEN BIỂN: Địa hình và thuỷ văn: Với bờ biển dài trên 3260km trải dài suốt 13 vĩ độ từ bắc xuống nam, môi trường biển của Việt Nam được đặc trưng bởi một dải rộng về sự đa dạng hình dạng loài theo địa lý, khí hậu, thuỷ văn, kinh tế và địa chính trị. Trên 3000 đảo trong khơi và ngoài khơi rải rác khắp lãnh thổ Việt Nam, gồm cả những quần đảo, Trường Sa và Hoàng Sa. Tổng diện tích ngoài các đặc khi kinh tế (EEZ) lên tới khoảng một triệu km2. Thềm lục địa phản ánh đúng hình thể đất nước, rộng và nông ở Bắc và Nam, nhưng hẹp và sâu ở miền Trung từ Đà Nẵng đi Mũi Dinh. Cả hai thềm lục địa Bắc và Nam nông và có nhiều mảng cát lầy. Phía Bắc có độ sâu kém phía nam khoảng 90m và phía Nam có 50 đằng áp rộng 360 km dọc bờ biển. Nhiều đảo đá vôi rải rác trong các khu vực này, đặc biệt ở bắc vịnh bắc bộ. Dọc bờ biển từ miền Bắc và miền Trung là những thềm cát, trải rộng đến tận tổ hợp những hệ đầm phá ở Huế. Từ Đà Nẵng xuống phía Nam là bờ đá ngầm. Ba khu vực riêng biệt có thể chia theo điều kiện thuỷ văn khác nhau; Vịnh Bắc Bộ, Trung và Nam Việt Nam. Miền Trung và miền Nam Việt Nam chỉ đặc trưng bởi hai mùa - gió màu tây nam (mùa hè) và gió mùa đông bắc (mùa đông). Vịnh Bắc bộ có 4 mùa riêng biệt. Nhiệt độ mặt biển trong mùa đông (tháng 1 đến tháng 3) thay đổi từ 18-240C trong khi mùa hè (tháng 7 đến 9) thay đổi quanh 300C. Mùa xuân và mùa thu nhiệt độ trung chuyển. Sông Hồng chịu tác động mạnh mẽ theo màu về độ mặn và độ xoáy dòng chảy của Vịnh Bắc Bộ độ mặn bề mặt trong mùa hè giảm xuống 12ppm gần cửa sông. Hướng dòng chính chảy hiện nay là đông nam - tây bắc trong mùa hè và đông bắc - tây nam trong mùa đông nhưng có sai khác theo từng khu vực. Trong khi gió mùa tây nam thổi, gió thổi cuộn trên mặt biển và trộn xáo lùa nước trên mặt biển ra khơi mang nước giàu dinh dưỡng dưới đáy biển lên trên bề mặt, làm cho nhiệt độ giảm xuống còn 22-230C. Hiện tượng này xảy ra từ tháng 6 đến tháng 9 ở những vùng ven bờ khu vực nam trung bộ, chủ yếu qunh đảo Phủ Quý và dọc tỉnh Bình Thuận. Khu vực ven biển nam bộ từ Vũng Tàu đến Cà Mau chịu ảnh hưởng mạnh của sông Mê Kông. Ngoài ra, các khu trung và bắc hàng năm phải chịu từ 6 đến 8 trận bão từ phía Đông đổ vào, hầu hết vào tháng 6 đến tháng 10, mỗi trận từ 3 đến 5 ngày, tốc độ gió khoảng 40 đến 50m/giây. II: ĐA DẠNG SINH HỌC VỀ HỆ SINH THÁI VÀ LOÀI Ở VIỆT NAM: 1: ĐA DẠNG CÁC HỆ SINH THÁI CỦA VIỆT NAM: Hệ sinh thái trên cạn: Trong các kiểu hệ sinh thái trên cạn thì rừng có sự đa dạng về thành phần loài cao nhất, đồng thời đây cũng là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật hoang dã và vi sinh vật có giá trị kinh tế và khoa học. Các kiểu hệ sinh thái tự nhiên khác có thành phần loài nghèo hơn. Kiểu hệ sinh thái nông nghiệp và khu đô thị là những kiểu hệ sinh thái nhân tạo, thành phần loài sinh vật nghèo nàn. Xét theo tính chất cơ bản là thảm thực vật bao phủ đặc trưng cho rừng mưa nhiệt đới ở Việt Nam, có thể thấy các kiểu rừng tiêu biểu: rừng kín vùng thấp, rừng thưa, trảng truông, rừng kín vùng cao, quần hệ lạnh vùng cao. Trong đó, các kiểu và kiểu phụ thảm thực vật sau đây có tính ĐDSH cao hơn và đáng chú ý hơn cả: kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới; kiểu rừng thưa cây lá rộng hơi khô nhiệt đới; kiểu rừng kín cây lá rộng, ẩm ướt nhiệt đới núi thấp; kiểu phụ rừng tręn núi đá vôi. Hệ sinh thái đất ngập nước: Công ước Ramsar định nghĩa "Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp". Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hình và hệ sinh thái, thuộc 2 nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính ĐDSH cao: Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát). Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U Minh thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm lầy than bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Đầm phá: thường thấy ? vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong phú bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm phá thay đổi theo mùa rõ rệt. Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ, đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xã rạn san hô rất phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn. Thảm cỏ biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển Dugon. Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo rất phong phú. Vùng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức độ ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, cỏ biển... Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long: ĐNN ở vùng cửa sông đồng bằng sông Hồng có diện tích 229.762 ha. Đây là nơi tập trung các hệ sinh thái với thành phần các loài thực vật, động vật vùng rừng ngập mặn phong phú, đặc biệt là nơi cư trú của nhiều loài chim nước. ĐNN đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất ngập nước 4.939.684 ha. Đây là bãi đẻ quan trọng của nhiều loài thủy sản di cư từ phía thượng nguồn sông Mê Công. Những khu rừng ngập nước và đồng bằng ngập lũ cũng là những vùng có tiềm năng sản xuất cao. Có 3 hệ sinh thái tự nhiên chính ở đồng bằng sông Cửu Long, đó là hệ sinh thái ngập mặn ven biển; hệ sinh thái rừng tràm ở vùng ngập nước nội địa và hệ sinh thái cửa sông. Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của mình. Tuy nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên. c) Hệ sinh thái biển: Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1 triệu km2 với nguồn tài nguyên sinh vật biển khá phong phú. Trong vùng biển nước ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng ĐDSH biển khác nhau. d) Đặc trưng của đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam: Tính phong phú và đa dạng của các kiểu hệ sinh thái: Với một diện tích không rộng, nhưng trên lãnh thổ Việt Nam có rất nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau. Ở từng vùng địa lý không lớn cũng tồn tại nhiều kiểu hệ sinh thái. Thành phần các quần xã trong các hệ sinh thái rất giàu. Cấu trúc quần xã trong các hệ sinh thái phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều nhánh. Điểm đặc trưng này làm cho đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các nước khác trên thế giới. Tính phong phú của các mối quan hệ giữa các yếu tố vật lý và các yếu tố sinh học, giữa các nhóm sinh vật với nhau, giữa các loài, giữa các quần thể trong cùng một loài sinh vật. Mạng lưới dinh dưỡng, các chuỗi dinh dưỡng với nhiều khâu nối tiếp nhau làm tăng tính bền vững của các hệ sinh thái. Các mối quan hệ năng lượng được thực hiện song song với các mối quan hệ vật chất rất phong phú, nhiều tầng, bậc thông qua các nhóm sinh vật: tự dưỡng (sinh vật sản xuất), dị dưỡng (sinh vật tięu thụ), hoại sinh (sinh vật phân hủy) trong các hệ sinh thái ở Việt Nam là những chuỗi quan hệ mà ở nhiều nước khác trên thế giới không có được. Các hệ sinh thái ở Việt Nam có đặc trưng tính mềm dẻo sinh thái cao, thể hiện ở sức chịu tải cao; khả năng tự tái tạo lớn; khả năng trung hòa và hạn chế các tác động có hại; khả năng tự khắc phục những tổn thương; khả năng tiếp nhận, chuyển hóa, đồng hóa các tác động từ bên ngoài. Các hệ sinh thái ở Việt Nam phần lớn là những hệ sinh thái nhạy cảm. Tính mềm dẻo sinh thái của các hệ sinh thái ở Việt Nam làm cho các hệ đó luôn ở trong trạng thái hoạt động mạnh, vě vậy, thường rất nhạy cảm với các tác động từ bęn ngoài, kể cả các tác động của thiên nhiên, cũng như những tác động của con người. 2: ĐA DẠNG LOÀI Ở VIỆT NAM: Tập hợp các dẫn liệu nghiên cứu, điều tra cơ bản đã có từ trước đến nay, thành phần loài thực vật, động vật ở Việt Nam được thống kê thì nhóm sinh vật vi tảo ở vùng nước ngọt được xác định là 1.438 loài chiếm 9,6% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 15.000); thực vật bậc cao có khoảng 11.400 loài chiếm 5% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 220.000); bò sát có 296 loài chiếm 4,7% so với thế giới (số loài có trên thế giới là 6.300)... Theo các tài liệu thống kê, Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ ĐDSH cao trên thế giới với dự tính có thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật. Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ ĐDSH (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới). a) Đa dạng loài