Đề tài Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay

1. Tính cấp thiết của đề tài Giai cấp công nhân đang hoạt động trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, “là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” , là hạt nhân của liên minh công nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng. Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng. Trong công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm 13% dân số, gần 23% lực lượng lao động xã hội, song hàng năm đã tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, đảm bảo 60% nguồn thu ngân sách nhà nước. Những đóng góp của giai cấp công nhân khẳng định vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Giai cấp công nhân nước ta đang có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, song trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, toàn cầu hoá diễn ra như một xu thế khách quan, tình hình thế giới có những thay đổi hết sức nhanh chóng, âm mưu ''diễn biến hoà bình'' của các thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp, tác động mặt trái của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang từng ngày, từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Tình trạng trạng thất nghiệp, lao động không ổn định, thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng đe dọa giai cấp công nhân. Hàng chục vạn công nhân, lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất phải thuê nhà ở, sinh hoạt trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo an toàn. Đặc biệt là tiền lương, thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời gian lao động, thậm chí có nơi lương công nhân không đủ nuôi sống bản thân, đời sống gặp nhiều khó khăn. Điều kiện sinh hoạt tinh thần cũng rất thiếu thốn. Công nhân lao động không có thời gian, điều kiện sinh hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế. Có một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của giai cấp công nhân, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn. Đã xảy ra tranh chấp lao động và đình công ồ ạt trong công nhân lao động thời gian qua, phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp luật của công nhân lao động. Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân cơ bản là những năm qua, Đảng và Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng đến xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân, đặc biệt, sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề xây dựng giai cấp công nhân còn nhiều bất cập. Từ nhận thức về vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân đến tổ chức lãnh đạo trong thực tiễn đều có những bất cập. Tình hình giai cấp công nhân đặt ra nhiều vấn đề mới cần có định hướng của Đảng, nhưng chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm đổi mới, Đảng chưa có chiến lược về xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện đại; trong quá trình chuyển sang cơ chế mới đã có những biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trò giai cấp công nhân, một số cấp uỷ có trách nhiệm nhưng chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân, chưa tập trung lãnh đạo giải quyết những vấn đề bức xúc của công nhân trong phạm vị trách nhiệm; Công đoàn còn lúng túng trong đổi mới tổ chức, hoạt động, chưa phát huy tốt vai trò trong xây dựng giai cấp công nhân Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và chuyển đổi cơ cấu lao động sang hướng công nghiệp và dịch vụ, giai cấp công nhân nước ta sẽ phát triển rất nhanh, không chỉ là lực lượng chính trị, xã hội quan trọng mà còn là người nắm giữ cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại nhất của nền kinh tế, có vai trò quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tăng cường xây dựng giai cấp công nhân có giác ngộ và bản lĩnh chính trị, có trình độ học vấn và nghề nghiệp ngày càng cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” . Thực hiện chủ trương đó, Đảng phải đặc biệt quan tâm lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Để khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường có hiệu quả sự lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng phải có những giải pháp đồng bộ, trong đó cần có những nghiên cứu khoa học về vấn đề này, làm rõ nội dung, phương thức, trách nhiệm trong việc lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng. Thực tế đó cho thấy, việc nghiên cứu đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay” có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề xây dựng và vận động giai cấp công nhân là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng, được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng từ khi thành lập đến nay, trong đó có vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Những năm gần đây, trước những vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân do công cuộc đổi mới và sự biến đổi của thế giới đem lại, nhiều cơ quan có trách nhiệm, nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm nghiên cứu vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Sau đây xin lược qua những tài liệu và công trình tiêu biểu: * Báo, Tạp chí 1. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (Phát biểu tại Đại hội IX Công đoàn Việt Nam), Xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, Ngày 13/10/2003. Trước yêu cầu của tình hình mới, để giai cấp công nhân xứng đáng là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tổng Bí thư nêu một số vấn đề cơ hội lớn và cả những thách thức lớn đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và đặc biệt là tổ chức công đoàn có trách nhiệm tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực khuyến khích công nhân, lao động khắc phục khó khăn, tự giác rèn luyện tích cực tham gia các chương trình đào tạo, đào tạo lại và tự đào tạo, từng bước trí thức hóa công nhân và hình thành xã hội học tập. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm không chỉ của riêng tổ chức công đoàn mà còn là của Đảng và Nhà nước”. 2. Văn Tạo, Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam của Văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Cộng sản tháng 5/2006. Tác giả cho rằng từ đầu những năm 1980 đến nay, giai cấp công nhân nước ta đã có những nét đổi mới như sau: 1)Về cơ bản, giai cấp công nhân đã được trí thức hóa. Một bộ phận lớn giai cấp công nhân đã là trí thức; 2) Trong tất cả các lĩnh vực lao động sản xuất, người công nhân không còn thuần túy là người làm thuê (chỉ có quyền được bán sức lao động để sống), mà đã có phần nào làm chủ, chí ít là làm chủ đất nước, góp phần làm chủ Nhà nước (định ra Hiến pháp, pháp luật.), nhằm làm chủ trong cả sản xuất lẫn phân phối sản phẩm lao động. 3) Đại bộ phận công nhân không còn hoàn toàn là vô sản như hồi đầu thế kỷ XX, mà đã là hữu sản, trong đó một số công nhân tri thức đã có sở hữu trí tuệ - một thứ sở hữu có thể tạo ra của cải làm giàu cho xã hội và cho bản thân mình; một số công nhân đã có cổ phần xí nghiệp, được hưởng lợi nhuận từ cổ phần góp vào theo đúng pháp luật nhà nước của chính giai cấp mình quy định; 4) Giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò tiền phong, đang trên đà đưa “khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nắm những vị trí then chốt về khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao và một lượng sản phẩm xã hội cao nhất trong nền kinh tế quốc dân; 5) Giai cấp công nhân Việt Nam đã có một vị thế quốc tế của một nước có nền kinh tế sánh vai được với 5 châu, một trong những nước tăng tiến nhanh về xuất khẩu, tăng trưởng nhanh về khoa học, công nghệ, kể cả về tin học; 6) Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới của dân tộc. 3. Nguyễn Hòa Bình (Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần Đại hội X của Đảng, website của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả cho rằng “Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân luôn là mối quan tâm thường trực của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta”. Tác giả đánh giá sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vai trò, vị trí giai cấp công nhân từng bước được bổ sung, hoàn thiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho sự hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân. Khẳng định đó được minh chứng bằng các quan điểm thể hiện qua các văn kiện của thời kỳ đổi mới. Nhờ những chủ trương, chính sách đúng đắn đó, giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng thể hiện vai trò đóng góp to lớn và quyết định sự nghiệp cách mạng Việt Nam. 4. Thạc sỹ Dương Thị Thanh Xuân, Giải pháp nâng cao ý thức chính trị cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/2005. Theo tác giả, đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (CVĐTNN) hình thành và không ngừng lớn mạnh. Bài nghiên cứu đề cập đến số lượng, chất lượng và vai trò ngày càng quan trọng của đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp này. Họ là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân này về mọi mặt, đặc biệt là giáo dục, nâng cao ý thức chính trị. * Sách tham khảo 1. PGS, TS Phan Thanh Khôi (chủ biên), Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Trên cơ sở luận giải ý thức chính trị của giai cấp công nhân và thực trạng ý thức chính trị của công nhân doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội, tập thể tác giả đưa ra những dự báo xu hướng biến động về ý thức chính trị của công nhân trong 2 loại doanh nghiệp trên ở Hà Nội và đưa ra 6 giải pháp nhằm nâng cao ý thức chính trị của công nhân, trong đó có đề cập đến nội dung đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân của các cấp uỷ đảng, tổ chức công đoàn trên địa bàn và doanh nghiệp, đồng thời nhấn mạnh cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giúp công nhân nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật lao động, ý thức chấp hành pháp luật của nhà nước và những nội quy làm việc tại doanh nghiệp. 2. Cù Thị Hậu, Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), tham luận tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội). Tác giả chỉ rõ những thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình hiện nay như việc làm, thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng. Tiếp đó, chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của giai cấp công nhân hiện nay (trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế, có một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của GCCN, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn). Tình trạng tranh chấp lao động và đình công của công nhân xảy ra ngày càng nhiều phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp luật của công nhân lao động, sự hạn chế của tổ chức Công đoàn và sự chưa quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công nhân lao động. Tác giả nêu kiến nghị về cần xây dựng chiến lược tổng thể, toàn diện xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Đảng cần đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong GCCN. Đồng thời, tăng cường lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu của Đảng, Nhà nước, của các đoàn thể chính trị - xã hội, tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tế về giai cấp công nhân. 3. Viện Công nhân và Công đoàn (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb Lao động, Hà Nội (do TS Dương Văn Sao chủ biên). Các tác giả phân tích thực trạng đội ngũ công nhân; thực trạng hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này và đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn. Tuy nhiên, do phạm vi, đối tượng nghiên cứu công trình, các tác giả mới chỉ dừng ở việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này, chưa gắn nội dung nghiên cứu với việc xây dựng giai cấp công nhân trong loại hình doanh nghiệp đặc biệt này, chưa làm rõ sự cần thiết hình thành tổ chức đảng trong doanh nghiệp để lãnh đạo công đoàn, các tổ chức chính trị khác trong doanh nghiệp đối với việc xây dựng đội ngũ công nhân ở doanh nghiệp giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần yêu quê hương, đất nước, có tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * Luận văn, luận án: 1. Võ Châu Thảo (2005), Công tác phát triển đảng viên trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong luận văn, tác giả chủ yếu tập trung khảo sát công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn 1995 đến 2005 và đề xuất giải pháp cho nhiệm kỳ tiếp theo. 2. Bùi Thị Kim Hậu (2004), Trí thức hoá công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (qua thực tế của một số doanh nghiệp nhà nước), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. Luận văn xây dựng được khái niệm trí thức hoá công nhân và phân tích thực trạng quá trình trí thức hoá giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện nhiệm vụ trí thức hoá giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó đề cập đến việc phát huy nội lực của giai cấp công nhân, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công nhân, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức vào quá trình trí thức hoá công nhân. Luận văn chưa đề cập đến vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp cũng như chưa làm sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình trí thức hoá công nhân. 3. Phạm Thi Xuân Hương (2001), Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học. Luận án tập trung trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn về các khía cạnh kinh tế - xã hội liên quan đến vấn đề đình công, phân tích thực trạng, nguyên nhân và dự báo xu hướng đình công của công nhân nước ta trong những năm tiếp theo và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phòng ngừa, giải quyết đình công ở nước ta. Dưới góc độ triết học, luận án không giải quyết những nội dung cụ thể liên quan đến việc lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của giai cấp công nhân đối với sự phát triển ổn định, bền vững của doanh nghiệp, của đất nước, nhất là những kiến nghị về chính sách vĩ mô nhằm giải quyết triệt để tình trạng đình công của công nhân. Các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân, xây dựng giai cấp công nhân và lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân nêu trên đã đề cập nhiều nội dung với các góc độ khác nhau, có những đóng góp quan trọng về vấn đề xây dựng giai cấp công nhân. Tuy nhiên, các công trình đó cũng còn một số hạn chế như: + Hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập ở trên chưa trực tiếp đi sâu về phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với giai cấp công nhân, chưa chỉ rõ nội dung lãnh đạo gồm những vấn đề gì? trách nhiệm của các cấp uỷ đảng trong việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân. Trong đó, vai trò, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn, lãnh đạo các loại hình doanh nghiệp trong việc góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, hiện đại chưa được cụ thể hoá, thiếu sự tổng kết thực tiễn để chỉ đạo. + Còn quá ít các công trình nghiên cứu về bản chất giai cấp công nhân Việt Nam trên cơ sở kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của Việt Nam, vì vậy mà chưa làm rõ được đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay để từ đó có các biện pháp nâng cao chất lượng của giai cấp công nhân phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới. + Các công trình nghiên cứu ít có sự khảo cứu thực chứng, việc nghiên cứu phần lớn còn mang tính suy luận. Nhiều công trình còn in dấu của chủ nghĩa kinh viện với những lập luận còn thiếu thuyết phục. Chính vì vậy mà chưa làm rõ hết được nội dung, bản chất và sự biến đổi nhanh chóng của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Các biện pháp xây dựng giai cấp công nhân mới chỉ dừng lại ở tầm vĩ mô chứ ít quan tâm đến các biện pháp mang tính vi mô. + Các công trình nghiên cứu ít có sự tiếp cận với những quan niệm hiện đại về bản chất, nội dung của giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cũng như các biện pháp xây dựng giai cấp công nhân hiện đại đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Còn thiếu những công trình so sánh, đối chiếu một cách có hệ thống vấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam với các nước trên thế giới. Vì sao giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chưa rèn luyện được phong cách làm việc khoa học, tác phong công nghiệp như ở các nước đang phát triển khác, đấu tranh, đình công không đúng quy định của pháp luật? Do vậy, mà các kinh nghiệm và bài học xây dựng giai cấp công nhân hiện đại ở các nước chưa được khai thác triệt để. + Ở nước ta, việc xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng giai cấp công nhân đã bỏ qua nghiên cứu và phân tích về môi trường sinh hoạt, học tập và làm việc cụ thể của giai cấp công nhân ở từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, chưa xây dựng được những dự báo khoa học về sự thay đổi trong giai cấp công nhân Việt Nam, làm cơ sở để hoạch định chủ trương, chính sách mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. + Chưa đưa ra những chính sách cụ thể để khuyến khích, thúc đẩy người sử dụng lao động đóng góp kinh phí để không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động trong doanh nghiệp. Đồng thời, chậm sửa đổi, bổ sung chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, về tiền lương, bảo hiểm để giải quyết những kiến nghị của một số công nhân dẫn đến đình công, bãi công bất hợp pháp ở một số doanh nghiệp liên doanh gây khó khăn cho chủ doanh nghiệp hoặc không bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp và chính đáng của công nhân ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây, chúng tôi hy vọng, kết quả nghiên cứu của chúng tôi sẽ kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu trước, cung cấp thêm một số hệ thống luận cứ để đánh giá đúng thực trạng giai cấp công nhân, thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân ở nước ta, chỉ rõ những ưu, khuyết điểm về chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân, dự báo những biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu của giai cấp công nhân trong những năm tiếp theo và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu. 3. Nhiệm vụ của đề tài - Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, bao gồm: vai trò, đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, sự cần thiết, nội dung, phương thức lãnh đạo, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đối tượng lãnh đạo. - Đánh giá đúng thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân, rút ra nguyên nhân, kinh nghiệm (qua khảo sát trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh). - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở lý luận và khảo sát thực tiễn, đưa ra được những dự báo cần thiết về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong khoảng 10 năm tới, đề xuất phương hướng và hệ giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân, cùng những kiến nghị cụ thể cho Đảng, Nhà nước, Công đoàn về xây dựng giai cấp công nhân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân (qua khảo sát trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh) từ 2001 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng ta về giai cấp công nhân và xây dựng giai cấp công nhân; và dựa trên thực tiễn xây dựng giai cấp công nhân trên một số địa bàn Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh hiện nay. - Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng Mác-xít; phương pháp nghiên cứu: lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm. 6. Đóng góp khoa học của đề tài - Quan niệm về Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam, nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công trong giai đoạn hiện nay; - Những thời cơ và thách thức đối với giai cấp công nhân Việt nam trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập nền kinh tế thế giới. - Một số kinh nghiệm bước đầu rút ra từ thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm qua. - Những giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả lãnh đạo xây dựng giai cấp công của Đảng trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của tổng quan Ngoài phần mở đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan gồm 3 chương, 6 tiết.

doc136 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 6190 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐÂU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giai cấp công nhân đang hoạt động trong tất cả các ngành nghề, các thành phần kinh tế, “là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, là hạt nhân của liên minh công nông và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng. Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng. Trong công cuộc đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm 13% dân số, gần 23% lực lượng lao động xã hội, song hàng năm đã tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước, đảm bảo 60% nguồn thu ngân sách nhà nước. Những đóng góp của giai cấp công nhân khẳng định vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Giai cấp công nhân nước ta đang có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, song trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, toàn cầu hoá diễn ra như một xu thế khách quan, tình hình thế giới có những thay đổi hết sức nhanh chóng, âm mưu ''diễn biến hoà bình'' của các thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp, tác động mặt trái của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang từng ngày, từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn. Tình trạng trạng thất nghiệp, lao động không ổn định, thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng đe dọa giai cấp công nhân. Hàng chục vạn công nhân, lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất phải thuê nhà ở, sinh hoạt trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo an toàn. Đặc biệt là tiền lương, thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời gian lao động, thậm chí có nơi lương công nhân không đủ nuôi sống bản thân, đời sống gặp nhiều khó khăn. Điều kiện sinh hoạt tinh thần cũng rất thiếu thốn. Công nhân lao động không có thời gian, điều kiện sinh hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do vậy, trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế. Có một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của giai cấp công nhân, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn. Đã xảy ra tranh chấp lao động và đình công ồ ạt trong công nhân lao động thời gian qua, phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp luật của công nhân lao động. Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân cơ bản là những năm qua, Đảng và Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng đến xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân, đặc biệt, sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề xây dựng giai cấp công nhân còn nhiều bất cập. Từ nhận thức về vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân đến tổ chức lãnh đạo trong thực tiễn đều có những bất cập. Tình hình giai cấp công nhân đặt ra nhiều vấn đề mới cần có định hướng của Đảng, nhưng chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm đổi mới, Đảng chưa có chiến lược về xây dựng và phát triển giai cấp công nhân hiện đại; trong quá trình chuyển sang cơ chế mới đã có những biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trò giai cấp công nhân, một số cấp uỷ có trách nhiệm nhưng chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân, chưa tập trung lãnh đạo giải quyết những vấn đề bức xúc của công nhân trong phạm vị trách nhiệm; Công đoàn còn lúng túng trong đổi mới tổ chức, hoạt động, chưa phát huy tốt vai trò trong xây dựng giai cấp công nhân… Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước và chuyển đổi cơ cấu lao động sang hướng công nghiệp và dịch vụ, giai cấp công nhân nước ta sẽ phát triển rất nhanh, không chỉ là lực lượng chính trị, xã hội quan trọng mà còn là người nắm giữ cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại nhất của nền kinh tế, có vai trò quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tăng cường xây dựng giai cấp công nhân có giác ngộ và bản lĩnh chính trị, có trình độ học vấn và nghề nghiệp ngày càng cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Thực hiện chủ trương đó, Đảng phải đặc biệt quan tâm lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Để khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường có hiệu quả sự lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng phải có những giải pháp đồng bộ, trong đó cần có những nghiên cứu khoa học về vấn đề này, làm rõ nội dung, phương thức, trách nhiệm trong việc lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của Đảng. Thực tế đó cho thấy, việc nghiên cứu đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay” có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề xây dựng và vận động giai cấp công nhân là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa chiến lược của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng, được đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng từ khi thành lập đến nay, trong đó có vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Những năm gần đây, trước những vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân do công cuộc đổi mới và sự biến đổi của thế giới đem lại, nhiều cơ quan có trách nhiệm, nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan tâm nghiên cứu vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân. Sau đây xin lược qua những tài liệu và công trình tiêu biểu: * Báo, Tạp chí 1. Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (Phát biểu tại Đại hội IX Công đoàn Việt Nam), Xây dựng giai cấp công nhân, tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, Ngày 13/10/2003. Trước yêu cầu của tình hình mới, để giai cấp công nhân xứng đáng là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tổng Bí thư nêu một số vấn đề cơ hội lớn và cả những thách thức lớn đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và đặc biệt là tổ chức công đoàn có trách nhiệm tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực khuyến khích công nhân, lao động khắc phục khó khăn, tự giác rèn luyện tích cực tham gia các chương trình đào tạo, đào tạo lại và tự đào tạo, từng bước trí thức hóa công nhân và hình thành xã hội học tập. Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn vững mạnh là trách nhiệm không chỉ của riêng tổ chức công đoàn mà còn là của Đảng và Nhà nước”. 2. Văn Tạo, Quan điểm mới về giai cấp công nhân Việt Nam của Văn kiện Đại hội X của Đảng, Tạp chí Cộng sản tháng 5/2006. Tác giả cho rằng từ đầu những năm 1980 đến nay, giai cấp công nhân nước ta đã có những nét đổi mới như sau: 1)Về cơ bản, giai cấp công nhân đã được trí thức hóa. Một bộ phận lớn giai cấp công nhân đã là trí thức; 2) Trong tất cả các lĩnh vực lao động sản xuất, người công nhân không còn thuần túy là người làm thuê (chỉ có quyền được bán sức lao động để sống), mà đã có phần nào làm chủ, chí ít là làm chủ đất nước, góp phần làm chủ Nhà nước (định ra Hiến pháp, pháp luật...), nhằm làm chủ trong cả sản xuất lẫn phân phối sản phẩm lao động. 3) Đại bộ phận công nhân không còn hoàn toàn là vô sản như hồi đầu thế kỷ XX, mà đã là hữu sản, trong đó một số công nhân tri thức đã có sở hữu trí tuệ - một thứ sở hữu có thể tạo ra của cải làm giàu cho xã hội và cho bản thân mình; một số công nhân đã có cổ phần xí nghiệp, được hưởng lợi nhuận từ cổ phần góp vào theo đúng pháp luật nhà nước của chính giai cấp mình quy định; 4) Giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò tiền phong, đang trên đà đưa “khoa học, kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nắm những vị trí then chốt về khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao và một lượng sản phẩm xã hội cao nhất trong nền kinh tế quốc dân; 5) Giai cấp công nhân Việt Nam đã có một vị thế quốc tế của một nước có nền kinh tế sánh vai được với 5 châu, một trong những nước tăng tiến nhanh về xuất khẩu, tăng trưởng nhanh về khoa học, công nghệ, kể cả về tin học; 6) Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam đang lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới của dân tộc. 3. Nguyễn Hòa Bình (Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam), Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân Việt Nam theo tinh thần Đại hội X của Đảng, website của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả cho rằng “Xây dựng, phát triển toàn diện giai cấp công nhân luôn là mối quan tâm thường trực của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta”. Tác giả đánh giá sự đổi mới tư duy của Đảng ta về vai trò, vị trí giai cấp công nhân từng bước được bổ sung, hoàn thiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho sự hoàn thiện đường lối, chủ trương xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân. Khẳng định đó được minh chứng bằng các quan điểm thể hiện qua các văn kiện của thời kỳ đổi mới. Nhờ những chủ trương, chính sách đúng đắn đó, giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng thể hiện vai trò đóng góp to lớn và quyết định sự nghiệp cách mạng Việt Nam. 4. Thạc sỹ Dương Thị Thanh Xuân, Giải pháp nâng cao ý thức chính trị cho công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạp chí Xây dựng Đảng, số 10/2005. Theo tác giả, đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (CVĐTNN) hình thành và không ngừng lớn mạnh. Bài nghiên cứu đề cập đến số lượng, chất lượng và vai trò ngày càng quan trọng của đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp này. Họ là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp công nhân Việt Nam. Do đó, cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân này về mọi mặt, đặc biệt là giáo dục, nâng cao ý thức chính trị. * Sách tham khảo 1. PGS, TS Phan Thanh Khôi (chủ biên), Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh nghiệp ở Hà Nội hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003. Trên cơ sở luận giải ý thức chính trị của giai cấp công nhân và thực trạng ý thức chính trị của công nhân doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Hà Nội, tập thể tác giả đưa ra những dự báo xu hướng biến động về ý thức chính trị của công nhân trong 2 loại doanh nghiệp trên ở Hà Nội và đưa ra 6 giải pháp nhằm nâng cao ý thức chính trị của công nhân, trong đó có đề cập đến nội dung đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân của các cấp uỷ đảng, tổ chức công đoàn trên địa bàn và doanh nghiệp, đồng thời nhấn mạnh cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, giúp công nhân nhận thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật lao động, ý thức chấp hành pháp luật của nhà nước và những nội quy làm việc tại doanh nghiệp. 2. Cù Thị Hậu, Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, xứng đáng là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), tham luận tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội). Tác giả chỉ rõ những thách thức đối với giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình hiện nay như việc làm, thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng. Tiếp đó, chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của giai cấp công nhân hiện nay (trình độ học vấn, chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế, có một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, dẫn đến tha hóa về phẩm chất lối sống, phai nhạt phẩm chất của GCCN, giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn). Tình trạng tranh chấp lao động và đình công của công nhân xảy ra ngày càng nhiều phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp luật của công nhân lao động, sự hạn chế của tổ chức Công đoàn và sự chưa quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công nhân lao động. Tác giả nêu kiến nghị về cần xây dựng chiến lược tổng thể, toàn diện xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Đảng cần đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong GCCN. Đồng thời, tăng cường lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu của Đảng, Nhà nước, của các đoàn thể chính trị - xã hội, tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học để nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tế về giai cấp công nhân. 3. Viện Công nhân và Công đoàn (2003), Nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nxb Lao động, Hà Nội (do TS Dương Văn Sao chủ biên). Các tác giả phân tích thực trạng đội ngũ công nhân; thực trạng hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này và đưa ra hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công đoàn. Tuy nhiên, do phạm vi, đối tượng nghiên cứu công trình, các tác giả mới chỉ dừng ở việc nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này, chưa gắn nội dung nghiên cứu với việc xây dựng giai cấp công nhân trong loại hình doanh nghiệp đặc biệt này, chưa làm rõ sự cần thiết hình thành tổ chức đảng trong doanh nghiệp để lãnh đạo công đoàn, các tổ chức chính trị khác trong doanh nghiệp đối với việc xây dựng đội ngũ công nhân ở doanh nghiệp giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần yêu quê hương, đất nước, có tư tưởng, lập trường chính trị vững vàng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. * Luận văn, luận án: 1. Võ Châu Thảo (2005), Công tác phát triển đảng viên trong công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong luận văn, tác giả chủ yếu tập trung khảo sát công tác phát triển đảng viên trong công nhân các DNNQD ở các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương, Đồng Nai giai đoạn 1995 đến 2005 và đề xuất giải pháp cho nhiệm kỳ tiếp theo. 2. Bùi Thị Kim Hậu (2004), Trí thức hoá công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (qua thực tế của một số doanh nghiệp nhà nước), Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học. Luận văn xây dựng được khái niệm trí thức hoá công nhân và phân tích thực trạng quá trình trí thức hoá giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện nhiệm vụ trí thức hoá giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó đề cập đến việc phát huy nội lực của giai cấp công nhân, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với công nhân, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức vào quá trình trí thức hoá công nhân. Luận văn chưa đề cập đến vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp cũng như chưa làm sâu sắc vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình trí thức hoá công nhân. 3. Phạm Thi Xuân Hương (2001), Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học. Luận án tập trung trình bày cơ sở lý luận, thực tiễn về các khía cạnh kinh tế - xã hội liên quan đến vấn đề đình công, phân tích thực trạng, nguyên nhân và dự báo xu hướng đình công của công nhân nước ta trong những năm tiếp theo và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phòng ngừa, giải quyết đình công ở nước ta. Dưới góc độ triết học, luận án không giải quyết những nội dung cụ thể liên quan đến việc lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với việc nâng cao ý thức, trách nhiệm của giai cấp công nhân đối với sự phát triển ổn định, bền vững của doanh nghiệp, của đất nước, nhất là những kiến nghị về chính sách vĩ mô nhằm giải quyết triệt để tình trạng đình công của công nhân. Các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân, xây dựng giai cấp công nhân và lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân nêu trên đã đề cập nhiều nội dung với các góc độ khác nhau, có những đóng góp quan trọng về vấn đề xây dựng giai cấp công nhân. Tuy nhiên, các công trình đó cũng còn một số hạn chế như: + Hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập ở trên chưa trực tiếp đi sâu về phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với giai cấp công nhân, chưa chỉ rõ nội dung lãnh đạo gồm những vấn đề gì? trách nhiệm của các cấp uỷ đảng trong việc tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp công nhân. Trong đó, vai trò, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn, lãnh đạo các loại hình doanh nghiệp trong việc góp phần xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, hiện đại chưa được cụ thể hoá, thiếu sự tổng kết thực tiễn để chỉ đạo. + Còn quá ít các công trình nghiên cứu về bản chất giai cấp công nhân Việt Nam trên cơ sở kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội của Việt Nam, vì vậy mà chưa làm rõ được đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay để từ đó có các biện pháp nâng cao chất lượng của giai cấp công nhân phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới. + Các công trình nghiên cứu ít có sự khảo cứu thực chứng, việc nghiên cứu phần lớn còn mang tính suy luận. Nhiều công trình còn in dấu của chủ nghĩa kinh viện với những lập luận còn thiếu thuyết phục. Chính vì vậy mà chưa làm rõ hết được nội dung, bản chất và sự biến đổi nhanh chóng của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Các biện pháp xây dựng giai cấp công nhân mới chỉ dừng lại ở tầm vĩ mô chứ ít quan tâm đến các biện pháp mang tính vi mô. + Các công trình nghiên cứu ít có sự tiếp cận với những quan niệm hiện đại về bản chất, nội dung của giai cấp công nhân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cũng như các biện pháp xây dựng giai cấp công nhân hiện đại đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Còn thiếu những công trình so sánh, đối chiếu một cách có hệ thống vấn đề giai cấp công nhân ở Việt Nam với các nước trên thế giới. Vì sao giai cấp công nhân Việt Nam vẫn chưa rèn luyện được phong cách làm việc khoa học, tác phong công nghiệp như ở các nước đang phát triển khác, đấu tranh, đình công không đúng quy định của pháp luật? Do vậy, mà các kinh nghiệm và bài học xây dựng giai cấp công nhân hiện đại ở các nước chưa được khai thác triệt để. + Ở nước ta, việc xây dựng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng giai cấp công nhân đã bỏ qua nghiên cứu và phân tích về môi trường sinh hoạt, học tập và làm việc cụ thể của giai cấp công nhân ở từng ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, chưa xây dựng được những dự báo khoa học về sự thay đổi trong giai cấp công nhân Việt Nam, làm cơ sở để hoạch định chủ trương, chính sách mới phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. + Chưa đưa ra những chính sách cụ thể để khuyến khích, thúc đẩy người sử dụng lao động đóng góp kinh phí để không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động trong doanh nghiệp. Đồng thời, chậm sửa đổi, bổ sung chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, về tiền lương, bảo hiểm… để giải quyết những kiến nghị của một số công nhân dẫn đến đình công, bãi công bất hợp pháp ở một số doanh nghiệp liên doanh gây khó khăn cho chủ doanh nghiệp hoặc không bảo vệ kịp thời quyền lợi hợp pháp và chính đáng của công nhân ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá… Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây, chúng tôi hy vọng, kết quả nghiên cứu của chúng tôi sẽ kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên cứu trước, cung cấp thêm một số hệ thốn
Luận văn liên quan