Trong những năm đầu của Thế kỷ XXI, với sự đổi mới của đất nước, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các lĩnh vực trong đời sống xã hội không ngừng phát triển. Đặc biệt là lĩnh vực kinh tế luôn tăng trưởng cao, nhiều nhà máy, xí nghiệp, nhà cao tầng…được hình thành; Hàng hóa, vật tư, thiết bị, máy móc…ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, với sự gia tăng dân số, nhất là các đô thị lớn, làm nguy cơ cháy, nổ tăng lên.
Khi xảy ra cháy, nổ sẽ gây thiệt hại về tài sản, thậm chí cả tính mạng con người và ảnh hưởng đến môi trường. Cháy, nổ làm cho nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất bị đình trệ, nhiều người lâm vào cảnh không nhà, không cửa. Những tổn thất đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cộng đồng.
Tuy nhận thức được sự nghiêm trọng của cháy, nổ và thiệt hại do cháy, nổ gây ra, nhưng không phải tổ chức, cá nhân nào cũng ý thức được tầm quan trong của việc mua bảo hiểm cháy, nổ. Chính vì vậy, tuy đã được triển khai trên thị trường bảo hiểm Việt Nam từ rất lâu nhưng bảo hiểm cháy, nổ thời gian vừa qua vẫn chưa thực sự phát triển đúng với tiềm năng của nó.
Năm 2006, bảo hiểm cháy nổ được đưa vào thực hiện bắt buộc. Cho tới nay, các văn bản pháp lý liên quan đến nghiệp vụ này đã khá đầy đủ, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác bảo hiểm cháy nổ. Bảo hiểm cháy nổ được đưa vào thực hiện bắt buộc vừa là cơ hội, vừa là thử thách đối với tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt nam.
Bước vào năm 2008, một trong những định hướng mà PJICO đưa ra là đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ. Với thế và lực như hiện nay, liệu PJICO có thể tạo ra một bước đột phá trong khai thác bảo hiểm cháy nổ như đã làm trong khai thác bảo hiểm xe cơ giới năm vừa qua hay không?
Xuất phát từ câu hỏi trên, em lựa chọn đề tài: “Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy nổ tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO)”.
73 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 3151 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy nổ tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ.
1.1 Cháy và sự cần thiết của bảo hiểm cháy. 3
1.2 Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy. 6
1.2.1 Đối tượng bảo hiểm. 6
1.2.2 Phạm vi bảo hiểm 7
1.2.3 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 10
1.2.4 Phí bảo hiểm 11
1.2.5 Giám định và bồi thường tổn thất 15
1.3 Quy trình khai thác bảo hiểm. 17
1.4 Các hình thức triển khai bảo hiểm cháy nổ. 21
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC BẢO HIỂM
CHÁY, NỔ TẠI PJICO .
2.1 Một vài nét về công ty bảo hiểm PJICO. 23
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển. 23
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty. 24
2.1.3 Lĩnh vực kinh doanh. 26
2.1.4 Kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua. 27
2.2 Đánh giá chung về thị trường bảo hiểm cháy ở Việt Nam. 32
2.2.1 Vài nét về thị trường bảo hiểm cháy, nổ ở Việt Nam
thời gian qua. 32
2.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường bảo hiểm cháy
ở Việt Nam. 37
2.2.3 Một số công ty bảo hiểm tiêu biểu trên thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ. 49
2.3 Tiềm lực của PJICO trong khai thác bảo hiểm cháy nổ. 53
2.3.1. Kết quả kinh doanh và vị trí của bảo hiểm cháy nổ
trong dòng sản phẩm của PJICO. 53
2.3.2 Thế mạnh của PJICO trong khai thác bảo hiểm cháy nổ. 56
2.3.3 Điểm yếu của PJICO trong khai thác bảo hiểm cháy nổ. 58
2.3.4 Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy, nổ tại PJICO
trong thời gian sắp tới. 60
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY NỔ TẠI PJICO.
3.1 Định hướng và mục tiêu kinh doanh năm 2008. 61
3.2 Đề xuất và kiến nghị 64
3.2.1 Đề xuất với công ty PJICO 64
3.2.2 Kiến nghị đối với Nhà Nước. 66
KẾT LUẬN 68
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Hình 1.1: Quy trình triển khai bảo hiểm.
Hình 1.2: Quy trình khai thác bảo hiểm.
Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức hoạt động của công ty.
Hình 2.2: Thị phần của PJICO qua các năm.
Hình 2.3: Lợi nhuận kinh doanh trước thuế của công ty qua các năm.
Hình 2.4: Doanh thu phí bảo hiểm cháy, nổ trên thị trường Việt Nam
(2003 -2007).
Hình 2.5: Tốc độ tăng doanh thu phí bảo hiểm cháy, nổ và thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Hình 2.6: Thị phần bảo hiểm cháy, nổ trên thị trường năm 2007.
Hình 2.7 : Số vụ cháy ở Việt Nam (2002-2007).
Hình 2.8: Cơ cấu doanh thu các nghiệp vụ tại PJICO.
Hình 2.9: Doanh thu bảo hiểm cháy nổ (2004 – 2007).
Bảng 2.1: Doanh thu và thị phần bảo hiểm gốc của PJICO (1995-2007).
Bảng 2.2: Lợi nhuận kinh doanh trước thuế của PJICO (2000-2007).
Bảng 2.3: Doanh thu, tốc độ tăng và thị phần bảo hiểm cháy, nổ trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Bảng 2.4: Số vụ cháy và thiệt hại do cháy (2002-2007).
Bảng 2.5: Bảng so sánh tỷ lệ phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và tự nguyện.
Bảng 2.6: Cơ cấu doanh thu bảo hiểm gốc qua các năm (2004-2007).
Bảng 3.1: Kế hoạch doanh thu các nghiệp vụ năm 2008.
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm đầu của Thế kỷ XXI, với sự đổi mới của đất nước, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các lĩnh vực trong đời sống xã hội không ngừng phát triển. Đặc biệt là lĩnh vực kinh tế luôn tăng trưởng cao, nhiều nhà máy, xí nghiệp, nhà cao tầng…được hình thành; Hàng hóa, vật tư, thiết bị, máy móc…ngày càng nhiều. Bên cạnh đó, với sự gia tăng dân số, nhất là các đô thị lớn, làm nguy cơ cháy, nổ tăng lên.
Khi xảy ra cháy, nổ sẽ gây thiệt hại về tài sản, thậm chí cả tính mạng con người và ảnh hưởng đến môi trường. Cháy, nổ làm cho nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất bị đình trệ, nhiều người lâm vào cảnh không nhà, không cửa. Những tổn thất đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cộng đồng.
Tuy nhận thức được sự nghiêm trọng của cháy, nổ và thiệt hại do cháy, nổ gây ra, nhưng không phải tổ chức, cá nhân nào cũng ý thức được tầm quan trong của việc mua bảo hiểm cháy, nổ. Chính vì vậy, tuy đã được triển khai trên thị trường bảo hiểm Việt Nam từ rất lâu nhưng bảo hiểm cháy, nổ thời gian vừa qua vẫn chưa thực sự phát triển đúng với tiềm năng của nó.
Năm 2006, bảo hiểm cháy nổ được đưa vào thực hiện bắt buộc. Cho tới nay, các văn bản pháp lý liên quan đến nghiệp vụ này đã khá đầy đủ, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác bảo hiểm cháy nổ. Bảo hiểm cháy nổ được đưa vào thực hiện bắt buộc vừa là cơ hội, vừa là thử thách đối với tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt nam.
Bước vào năm 2008, một trong những định hướng mà PJICO đưa ra là đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ. Với thế và lực như hiện nay, liệu PJICO có thể tạo ra một bước đột phá trong khai thác bảo hiểm cháy nổ như đã làm trong khai thác bảo hiểm xe cơ giới năm vừa qua hay không?
Xuất phát từ câu hỏi trên, em lựa chọn đề tài: “Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy nổ tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex (PJICO)”.
Chuyên đề gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm cháy, nổ.
Chương 2: Đánh giá khả năng khai thác bảo hiểm cháy, nổ tại PJICO.
Chương 3: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm đẩy mạnh khai thác bảo hiểm cháy nổ tại PJICO.
Tuy đã có nhiều cố gắng, xong Chuyên đề chắc chắn còn thiếu sót, em kính mong được sự đóng góp của thầy cô. Qua đây cho em gửi lời cảm ơn chân thành tới Ths. Nguyễn Ngọc Hương và các cán bộ, nhân viên tại Công ty PJICO đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ.
Cháy và sự cần thiết của bảo hiểm cháy.
Trong cuộc sống lao động và sản xuất hàng ngày, con người phải đối mặt với hàng loạt các rủi ro. Có những rủi ro chỉ gây ra những thiệt hại nhỏ hoặc những tổn thất không đáng kể nhưng cũng có những rủi ro để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng cả về vật chất lẫn tinh thần. Cháy là một trong số những rủi ro mà con người thực sự e ngại vì khi xảy ra cháy, thường thì tổn thất là không nhỏ, đặc biệt là tổn thất về vật chất.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về cháy. Tuy nhiên, theo Quyết định 28/2007/QĐ-BTC mới ban hành gần đây thì cháy được hiểu là phản ứng hóa học có tỏa nhiệt và phát sáng do nổ hoặc bất kỳ nguyên nhân nào khác.
Hàng năm, trên thế giới xảy ra hàng triệu vụ cháy lớn nhỏ khác nhau, để lại hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê năm 2006 của Hiệp hội Quốc tế về hỏa hoạn tại Geneve (Thụy Sỹ), hàng năm tổn thất trực tiếp do cháy, nổ ở các nước phát triển trên thế giới chiếm khoảng 0,1-0,3 % GDP. Tổn thất trực tiếp do cháy, nổ gây ra vốn đã lớn, nhưng sẽ còn lớn hơn khi tính cả tổn thất gián tiếp như: Một xưởng sản xuất bị cháy sẽ dẫn đến đình trệ sản xuất, người lao động không có việc làm, làm ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe, ảnh hưởng đến an ninh trật tự khu dân cư nơi cháy, nổ xảy ra…
Ví dụ ở Mỹ năm 2004, thiệt hại trực tiếp do cháy, nổ chỉ là 13 tỷ USD nhưng nếu tính cả thiệt hại gián tiếp khác thì tổng thiệt hại do cháy, nổ là 200 tỷ USD, tương đương với 2%GDP.
Ở Việt Nam, các vụ cháy xảy ra nhiều và gây thiệt hại lớn. Theo số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2002-2006 xảy ra 11.795 vụ cháy, thiệt hại ước tính 1.710 tỷ đồng. Tuy nhiên, đây mới chỉ là số thiệt hại thống kê được và trên thực tế, nếu tính toán đầy đủ thì số thiệt hại có thể còn lớn hơn rất nhiều.
Cháy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ đâu với bất kỳ ai. Thiệt hại do cháy gây ra thường rất lớn. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, khi các doanh nghiệp tự chủ về tài chính. Nếu xảy ra cháy lớn sẽ khiến họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống và đảm bảo tài chính, thậm chí có thể bị phá sản.
Nền kinh tế càng phát triển thì nguy cơ xảy ra cháy nổ càng cao. Khoa học công nghệ giúp cho việc sản xuất kinh doanh được nhanh chóng, dễ dàng hơn. Nhưng đi cùng với nó là những rủi ro từ mặt trái của khoa học công nghệ gây ra, trong đó có cháy nổ. Chất thải, khí thải từ các nhà máy đang làm ô nhiễm dần bầu khí quyển, là nguyên nhân chính làm cho trái đất nóng dần lên, các tảng băng tan chảy, khí hậu biến động thất thường. Nắng nóng khiến cho nguy cơ cháy xảy ra cao hơn. Bên cạnh đó, xã hội ngày càng phát triển, giá trị tài sản phục vụ cho sản xuất càng lớn. Bởi vậy, khi có cháy nổ xảy ra thiệt hại càng nặng nề hơn.
Cháy nổ tưởng như chỉ là một rủi ro có thể xảy đến với một cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức nào không may mắn nhưng đôi khi, hậu quả do cháy nổ gây ra như một thảm họa. Nó có thể thiêu trụi bất cứ cái gì, có thể lan ra trên một địa bàn lớn…Mà nếu không được ngăn chặn kịp thời, cháy còn tiếp tục lan rộng.
Từ xưa đến nay, con người đã sử dụng nhiều biện pháp để phòng chống cháy nổ. Nhưng bảo hiểm vẫn được xem là biện pháp cần thiết trong việc khắc phục hậu quả do cháy nổ gây ra.
Sự ra đời nghiệp vụ Bảo hiểm cháy được đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn (Anh) ngày 02/09/1666, hủy diệt 13.000 căn nhà. Trong đó có hơn 100 nhà Thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được. Sau sự kiện thảm khốc đó, những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro cháy bằng cách đứng ra thành lập những công ty bảo hiểm cháy như: Fire Office (năm 1667), Friendly Society (năm 1684), Hand anh Hand (năm 1696), Lom Bard House (năm 1704)… Lúc đó công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực Hàng Hải.
Từ đó, thị trường bảo hiểm cháy bắt đầu phát triển, nhiều công ty bảo hiểm cháy lần lượt ra đời ở nhiều nước khác nhau trên Thế giới. Ở Mỹ, vào năm 1752, Công ty bảo hiểm cháy đầu tiên ra đời với hình thức công ty bảo hiểm tương hỗ có tên là The Philadenphia Contribution Ship. Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ cháy ở Luân Đôn nên năm 1786 công ty bảo hiểm cháy đầu tiên được thành lập mang tên là Company L’assurance Centree L’incendie, tiếp đến là công ty Company Royade (năm 1788).
Dần dần ở một số nước do nhận thấy được sự cần thiết của bảo hiểm cháy mà đã cho triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này dưới dạng bắt buộc.
Đến nay, thị trường bảo hiểm cháy vẫn tiếp tục phát triển và ngày càng được xem trọng hơn.
Ở Việt Nam, năm 1964 mới bắt đầu xuất hiện công ty bảo hiểm đầu tiên là Bảo Việt Việt Nam. Bảo Việt đã độc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm suốt một thời gian dài. Tuy nhiên, trong thời gian này do cơ chế bao cấp nên hầu hết các rủi ro ảnh hưởng đến tài chính của các doanh nghiệp đều được Nhà Nước đứng ra bù đắp. Chính vì vậy, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm cháy nổ nói riêng không có điều kiện phát triển.
Từ năm 1986, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, với cơ chế tự hoạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về tình hình tài chính của doanh nghiệp thì lúc này thị trường bảo hiểm mới bắt đầu thu hút sự quan tâm của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Cùng với sự ra đời của Quyết định 06/TCQĐ ngày 17/01/1989 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về Quy tắc và biểu phí bảo hiểm hỏa hoạn thì nghiệp vụ này mới bắt đầu được Bảo Việt triển khai. Đến ngày 02/05/1991 Quyết định này được thay thế bắng Quyết định 142/TCQĐ của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về việc ban hành Quy tắc và biểu phí bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt. Kể từ sau khi Nghị định số 100/1993/NĐ-CP được ban hành thì bảo hiểm hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt bắt đầu được triển khai rộng khắp và ngày càng phát triển trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bởi vì đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định có nhiều loại hình doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm (Nhà nước, cổ phần, tương hỗ, liên doanh, 100% vốn nước ngoài). Cùng góp mặt với Bảo Việt trên thị trường lúc này là sự ra đời của Bảo Minh (1994); PJICO, Bảo Long (1995); VIA, PVI (1996); UIC(1997)v.v..
Đến năm 2006, bảo hiểm cháy nổ được Nhà Nước đưa vào thực hiện bắt buộc sau Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 quy định về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc.
Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc là một tín hiệu tốt thúc đẩy thị trường bảo hiểm cháy nổ tiếp tục phát triển.
1.2 Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy.
1.2.1 Đối tượng bảo hiểm.
Đối tượng bảo hiểm là tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, các tổ chức và các nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Đối tượng này rất đa dạng về chủng loại, giá trị và mức độ rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, để dễ liệt kê, nó được chia làm năm nhóm chính:
- Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai).
- Máy móc, thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Sản xuất vật tư, hàng hóa dự trữ trong kho.
- Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dở thành phẩm, thành phẩm trên dây chuyền sản xuất.
- Các loại tài sản khác (kho, bãi, chợ, cửa hàng, khách sạn).
Những tài sản này chỉ thực sự được bảo hiểm khi giá trị của chúng tính được thành tiền và được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
1.2.2 Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm.
Trách nhiệm của công ty bảo hiểm bao gồm:
Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản được bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm (hoặc danh mục kèm theo giấy chứng nhận bảo hiểm) nếu người được bảo hiểm đã nộp phí bảo hiểm và những thiệt hại đó xảy ra trước 4 giờ chiều ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
Những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và sau khi cháy.
Chi phí thu dọn hiện trường sau khi cháy nếu những chi phí này được ghi rõ trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
Các rủi ro được bảo hiểm bao gồm:
a. Rủi ro chính, gồm : Cháy, sét, nổ (rủi ro A).
- Cháy : Cháy phải thực sự phát lửa, lửa đó không phải là lửa chuyên dùng và lửa đó phải là ngẫu nhiên, bất ngờ phát ra. Cháy có thể do nổ hay do nguyên nhân khác.
- Sét : Các thiệt hại do sét trực tiếp phá hủy hoặc do sét đánh gây cháy thì sẽ được bồi thường.
- Nổ :
Bao gồm: + Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
+ Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà chứ không phải phục vụ cho sản xuất trong các xưởng làm các công việc sử dụng hơi đốt.
Với điều kiện là những rủi ro nổ trên không phải do các nguyên nhân bị loại trừ. Các trường hợp nổ khác, tuy có gây ra tổn thất hoặc thiệt hại nhưng không gây cháy thì không được bồi thường. Ngoài ra, trường hợp nổ xuất phát từ cháy thì thiệt hại do nổ gây ra không được bồi thường, chỉ những thiệt hại ban đầu do cháy gây ra mới được bồi thường.
b. Các rủi ro phụ.
Ngoài những rủi ro chính đã kể ở trên, trong các đơn bảo hiểm cháy còn mở rộng thêm các rủi ro phụ. Nhà bảo hiểm chỉ chấp nhận bảo hiểm cho các rủi ro phụ khi người tham gia đã tham gia các rủi ro chính. Người tham gia bảo hiểm có thể lựa chọn các rủi ro phụ mà họ thấy cần thiết. Họ phải trả thêm phí cho các rủi ro phụ này.
Các rủi ro phụ gồm có:
+ Máy bay, các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào gây ra cháy.
+ Nổi loạn, đình công, bế xưởng, bạo động dân sự hoặc hành động của những người tham gia các cuộc gây rối hay những người có ác ý không mang tính chất chính trị.
+ Động đất.
+ Lửa ngầm dưới đất.
+ Cháy mà nguyên nhân là do bản thân tài sản tự lên men, tỏa nhiệt hay bốc cháy.
+ Giông tố, bão táp và lũ lụt.
+ Vỡ, tràn nước từ các bể chứa, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn.
+ Xe cộ, súc vật không thuộc quyền sở hữu, quyền kiểm soát của người được bảo hiểm hay của người làm thuê cho họ đâm vào.
+ Nước chảy hoặc rò rỉ ra từ thiết bị vòi phun sprinkler tự động lắp sẵn trong nhà.
c. Rủi ro loại trừ.
Doanh nghiệp bảo hiểm không có nghĩa vụ bồi thường nếu thiệt hại do một trong những nguyên nhân sau gây ra:
- Tổn thất do hành động cố ý hay đồng lõa của người được bảo hiểm gây ra nhằm mục đích đòi bồi thường thiệt hại theo Hợp đồng bảo hiểm.
- Những tổn thất có liên quan đến hàng hóa nhận ủy thác hoặc kí gửi, trừ khi những hàng hóa đó được xác nhận trong Giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm và người được bảo hiểm trả thêm phí bảo hiểm theo quy định.
- Tiền, chứng khoán, kim loại quý, đá quý, thư bảo lãnh, bản thảo, sổ sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi những hạng mục này được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Chất nổ nhưng không bao gồm: nhiên liệu, xăng dầu.
- Người, thực vật và động vật sống.
- Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được bảo hiểm theo đơn Bảo hiểm hàng hải hay thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hàng hải, trừ phần thiệt hại vượt quá trách nhiệm bồi thường theo đơn bảo hiểm hàng hải.
- Tài sản bị mất cắp hay bị cướp.
- Những thiệt hại gây ra cho bên thứ ba.
- Những thiệt hại nằm trong phạm vi mức miễn thường.
1.2.3 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
Bảo hiểm cháy là loại hình bảo hiểm tài sản, bởi vậy trong thực tế thường gặp cả 2 thuật ngữ: Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm là giá trị của tài sản được bảo hiểm, được tính theo giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới của tài sản. Tuy nhiên, có rất nhiều loại tài sản khác nhau, bởi vậy giá trị bảo hiểm thường được tính cho những loại sau:
+ Giá trị của các tài sản văn phòng, nhà ở: giá trị bảo hiểm được xác định theo giá trị ban đầu khi đưa tài sản này vào sử dụng (tức là giá trị mua mới). Còn đối với loại tài sản đã qua sử dụng thì giá trị của tài sản được lấy theo giá trị còn lại (tức là giá trị thực tế của tài sản).
+ Giá trị của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác: giá trị bảo hiểm sẽ bằng giá mua cộng với chi phí chuyên chở, lắp đặt hoặc có những loại được xác định trên cơ sở giá trị thực tế.
+ Giá trị của các thành phẩm, bán thành phẩm: giá trị bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất.
+ Hàng hóa mua về để trong kho, trong cửa hàng: giá trị bảo hiểm được xác định theo giá mua thực tế cộng với chi phí vận chuyển.
Số tiền bảo hiểm là giá trị tính thành tiền theo giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm tham gia bảo hiểm và được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
Trong bảo hiểm cháy, thuật ngữ số tiền bảo hiểm được sử dụng phổ biến bởi vì quy mô của các loại tài sản luôn biến động trong từng doanh nghiệp cũng như trong toàn bộ nền kinh tế. Sự biến động này có xu hướng ngày càng tăng khi quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, bởi vì thông thường người ta chỉ xác định chính xác giá trị tài sản tại thời điểm nào đó, còn trong cả 1 quý, 1 tháng, 1 năm thì rất khó xác định một cách chính xác nên nhà bảo hiểm phải sử dụng thuật ngữ số tiền bảo hiểm.
Đối với các tài sản có số lượng thường xuyên tăng, giảm thì số tiền bảo hiểm có thể được xác định theo giá trị trung bình hay giá trị tối đa, theo thỏa thuận của doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm.
+ Nếu bảo hiểm theo giá trị trung bình thì bên mua bảo hiểm sẽ ước tính và thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về giá trị trung bình của tài sản trong thời hạn bảo hiểm. Giá trị trung bình này được coi là số tiền bảo hiểm.
+ Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa thì bên mua bảo hiểm sẽ ước tính và thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm giá trị tối đa của tài sản có thể đạt được vào một thời điểm nào đó của thời hạn bảo hiểm. Theo thỏa thuận, đầu mỗi tháng hoặc quý, bên mua bảo hiểm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm giá trị tối đa của tài sản trong tháng hoặc quý trước đó.
Trường hợp không xác định được giá trị thị trường của tài sản thì số tiền bảo hiểm sẽ do các bên thỏa thuận.
1.2.4 Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là giá cả của dịch vụ bảo hiểm cháy. Bởi vậy, trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, nhà bảo hiểm cần xác định phí chính xác và sát với thực tế.
Phí bảo hiểm cháy được tính theo công thức:
P= Sb ( R
Trong đó: Sb là số tiền bảo hiểm.
R là tỉ lệ phí bảo hiểm.
P là phí bảo hiểm.
+ Số tiền bảo hiểm (Sb).
Với số tiền bảo hiểm xác định theo giá trị trung bình thì phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị trung bình đó.
Với số tiền bảo hiểm xác định theo giá trị tối đa thì khi giao ký kết hợp đồng, phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa theo thông báo của bên mua bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được phép thu trước 75% số phí bảo hiểm tính trên cơ sở giá trị tối đa này.
Cuối thời hạn bảo hiểm, căn cứ vào các giá trị tối đa đã thông báo,