Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đối với đời sống kinh tế xã hội, thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Có được một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động phát triển của thực tiễn là điều kiện cần thiết và cấp bách. Theo tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình vận hành, đổi mới nền kinh tế đất nước đã luôn luôn chú trọng đến cải cách để đi tới hoàn thiện hệ thống thuế.
Có thể định nghĩa, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Hệ thống thuế, căn cứ vào mục đích điều tiết, được phân chia thành hai loại thuế, đó là: thuế trực thu và thuế gián thu. Tùy vào điều kiện phát triển, phương thức sản xuất và kết cấu xã hội. của mỗi nước mà cơ cấu các khoản thu này có sự khác nhau. Hiện nay, tại các nước phát triển có xu hướng coi trọng thuế gián thu; trong khi đó, các nước đang phát triển lại có xu hướng ngược lại là coi trọng thuế trực thu, trong đó có Thuế TNDN.
Trước năm 1990, ở Việt Nam có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là thuế lợi tức, loại thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh. Sau năm 1990, thực hiện công cuộc cải cách căn bản hệ thống chính sách thuế, Luật thuế lợi tức được ban hành và được áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm 1997, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN ngày càng trở nên có hiệu quả và thu được nhiều thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm còn tồn tại. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày./2008, Quốc hội nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế TNDN năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Luật thuế TNDN mới ban hành năm 2008 có nhiều thay đổi trong đó tiêu biểu là những thay đổi quan trọng về đối tượng nộp thuế, cụ thể là đảm bảo thống nhất việc áp dụng thuế TNDN đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các thành phần kinh tế với nhau. Đây là một chủ trương rất quan trọng của Nhà nước, tạo ra bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một luật thuế TNDN thống nhất và hoàn chỉnh.
21 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3439 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá về chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp về đối tượng nộp thuế theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đối với đời sống kinh tế xã hội, thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Có được một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động phát triển của thực tiễn là điều kiện cần thiết và cấp bách. Theo tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình vận hành, đổi mới nền kinh tế đất nước đã luôn luôn chú trọng đến cải cách để đi tới hoàn thiện hệ thống thuế.
Có thể định nghĩa, thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
Hệ thống thuế, căn cứ vào mục đích điều tiết, được phân chia thành hai loại thuế, đó là: thuế trực thu và thuế gián thu. Tùy vào điều kiện phát triển, phương thức sản xuất và kết cấu xã hội... của mỗi nước mà cơ cấu các khoản thu này có sự khác nhau. Hiện nay, tại các nước phát triển có xu hướng coi trọng thuế gián thu; trong khi đó, các nước đang phát triển lại có xu hướng ngược lại là coi trọng thuế trực thu, trong đó có Thuế TNDN.
Trước năm 1990, ở Việt Nam có một loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là thuế lợi tức, loại thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc doanh. Sau năm 1990, thực hiện công cuộc cải cách căn bản hệ thống chính sách thuế, Luật thuế lợi tức được ban hành và được áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Đến ngày 10/5/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thuế TNDN thay thế cho Luật thuế lợi tức, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/1999. Tiếp đó, ngày 17/6/2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật thuế TNDN sửa đổi để thay thế cho Luật thuế TNDN năm 1997, Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2004. Qua các lần sửa đổi, Luật thuế TNDN ngày càng trở nên có hiệu quả và thu được nhiều thành tựu khả quan, nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm còn tồn tại. Để khắc phục những nhược điểm này, ngày........../2008, Quốc hội nước ta một lần nữa thông qua Luật thuế TNDN năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Luật thuế TNDN mới ban hành năm 2008 có nhiều thay đổi trong đó tiêu biểu là những thay đổi quan trọng về đối tượng nộp thuế, cụ thể là đảm bảo thống nhất việc áp dụng thuế TNDN đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt các thành phần kinh tế với nhau... Đây là một chủ trương rất quan trọng của Nhà nước, tạo ra bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một luật thuế TNDN thống nhất và hoàn chỉnh.
Tìm hiểu về vấn đề này, nội dung bài viết chủ yếu đi sâu vào việc xem xét, đánh giá các quy định pháp luật về đối tượng nộp thuế theo quy định của Luật thuế TNDN năm 2008; điểm tiến bộ của chúng so với Luật thuế TNDN năm 2003, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản để hoàn chỉnh hơn nữa chính sách thuế TNDN ở Việt Nam nói chung và các quy định về đối tượng nộp thuế TNDN nói riêng, nhằm mục đích phát huy hơn nữa vai trò to lớn của thuế TNDN trong điều kiện nước ta hiện nay, đồng thời góp phần vào công cuộc cải cách thuế của Việt Nam trong thời gian tới.
NỘI DUNG CHÍNH
I/ Lý luận chung về thuế TNDN:
1/ Khái niệm và đặc điểm của thuế TNDN:
Căn cứ vào đối tượng nộp thuế thu nhập, hệ thống luật thực định về thuế ở các nước phân chia thuế thu nhập ra làm hai loại: thuế thu nhập công ty và thuế thu nhập cá nhân. Ở Việt Nam, thuế thu nhập cũng được phân chia thành hai loại là thuế TNDN và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Cách phân chia này của Việt Nam có điểm khác biệt so với các nước khác ở chỗ, việc phân chia thuế thu nhập dựa vào cả tiêu chí đối tượng nộp thuế thu nhập và nguồn gốc làm phát sinh thu nhập để phân chia (thu nhập đó có nguồn gốc từ kinh doanh hoặc từ không kinh doanh của cá nhân).
Có thể đưa ra một khái niệm được pháp luật Việt Nam và nhiều nước khác thừa nhận: Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập của cơ sở kinh doanh trong kỳ tính thuế sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến thu nhập đó.
Ngoài những đặc điểm chung của thuế là có tính cưỡng chế và tính pháp lý cao, là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp. Thuế TNDN còn có một số đặc điểm riêng, cụ thể là:
Do là loại thuế trực thu nên đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế TNDN là một, không có sự chuyển giao gánh nặng thuế từ người nộp thuế sang người chịu thuế.
Là loại thuế đánh vào lợi nhuận của các cơ sở sản xuất kinh doanh nên mức động viên của NSNN đối với loại thuế này phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả kinh doanh cũng như quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế cao sẽ phải nộp thuế nhiều, ngược lại những doanh nghiệp có thu nhập thấp hoặc gặp khó khăn sẽ được nộp thuế ít, thậm chí được giảm thuế, miễn thuế.
Thuế TNDN chỉ đánh vào phần thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan để tạo ra thu nhập đó.
Về nguyên tắc, thuế có tính chất lũy tiến. Tuy nhiên, do những điều kiện cụ thể mà một số nước trong đó có Việt Nam áp dụng thuế suất thống nhất đối với thuế TNDN.
2/ Vai trò của thuế TNDN:
Trong nền kinh tế thị trường, ở nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam ta thì sự tồn tại của thuế TNDN là tất yếu khách quan bởi những vai trò sau đây của nó:
- Thứ nhất, thuế TNDN là nguồn thu quan trọng của NSNN. Điều này được thể hiện bởi phạm vi áp dụng thuế TNDN là rất rộng. Nó khai thác nguồn thu từ các đối tượng nộp thuế có tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại thu nhập ở mọi lĩnh vực, trên mọi địa bàn. Mặt khác, cùng với xu hướng tăng trưởng kinh tế, quy mô của các hoạt động kinh doanh này ngày càng được mở rộng, hiệu quả kinh doanh ngày càng cao, tích lũy từ nội bộ doanh nghiệp ngày càng nhiều sẽ tạo nguồn thu về thuế TNDN cho ngân sách quốc gia ngày càng lớn.
- Thứ hai, thuế TNDN là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua hệ thống thuế suất ưu đãi và các chế độ miễn, giảm góp phần định hướng cho các nhà đầu tư trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cần khuyến khích đầu tư nhằm đảm bảo cơ cấu kinh tế hợp lý theo ngành và theo địa bàn.
Thuế TNDN còn góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển thông qua các hình thức hỗ trợ về thuế đối với các cơ sở mới thành lập hoặc các cơ sở khó khăn trong kinh doanh.
II/ Thực trạng áp dụng chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong thời gian qua:
1/ Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong những năm qua:
Theo quy định tại điều 1 và điều 2 Luật thuế TNDN năm 2003: Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế TNDN là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có thu nhập, trừ đối tượng là hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Riêng các hộ gia đình, cá nhân nông dân sản xuất hàng hóa lớn có thu nhập cao theo quy định của Chính phủ thì thực hiện chế độ nộp thuế TNDN theo quy định riêng.
Để chỉ rõ đối tượng nộp thuế TNDN, pháp luật thuế TNDN của Việt Nam có liệt kê các loại đối tượng nộp thuế TNDN tại điều 1 Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 quy định chi tiết thi hành Luật thuế TNDN năm 2003. Cụ thể là:
- Tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước; công ty trách nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; công ty hợp danh; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; các công ty nước ngoài và tổ chức nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; doanh nghiệp tư nhân; hợp tác xã; tổ hợp tác; tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp có tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Cá nhân trong nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bao gồm: cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh; hộ kinh doanh cá thể; cá nhân hành nghề độc lập có hoặc không có văn phòng, địa điểm hành nghề cố định thuộc đối tượng kinh doanh (trừ người làm công ăn lương) phải đăng ký nộp thuế TNDN với cơ quan thuế như: bác sỹ, luật sư, kế toán, kiểm toán, họa sỹ, kiến trúc sư, nhạc sỹ và những người hành nghề độc lập khác; cá nhân cho thuê tài sản như nhà, đất, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị và các loại tài sản khác.
- Cá nhân nước ngoài kinh doanh có thu nhập phát sinh tại Việt Nam, không phân biệt là hoạt động kinh doanh được thực hiện tại Việt Nam hay ở nước ngoài như: cho thuê tài sản, cho vay vốn, chuyển giao công nghệ, hoạt động tư vấn, tiếp thị, quảng cáo...
- Công ty nước ngoài hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở thường trú tại Việt Nam.
Cơ sở thường trú là cơ sở kinh doanh mà thông qua cơ sở này công ty ở nước ngoài thực hiện một phần hay toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam mang lại thu nhập. Cơ sở thường trú của công ty ở nước ngoài chủ yếu bao gồm các hình thức sau: chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, xưởng sản xuất, kho giao nhận hàng hóa, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu hoặc khí đốt, địa điểm thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên hay các thiết bị phương tiện phục vụ cho việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên; địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; các hoạt động giám sát xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; cơ sở cung cấp các dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công cho mình hay một đối tượng khác; đại lý cho công ty ở nước ngoài; đại diện ở Việt Nam trong các trường hợp như: có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty ở nước ngoài hoặc không có thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên công ty nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
2/ Kết quả áp dụng chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế trong thời gian qua:
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới năm 1986, nước ta chuyển sang kinh tế thị trường và bắt đầu tiến hành cải cách hệ thống thuế từ trước đó. Từ năm 1986 đến nay, chúng ta đã tiến hành cải cách hệ thống thuế TNDN qua ba lần sửa đổi. Việc triển khai thực hiện luật thuế TNDN từ trước đến nay tuy còn gặp khó khăn nhưng đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu của cải cách thuế là ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, đảm bảo nguồn thu cho NSNN, ổn định thị trường trong nước... Chính sách thuế TNDN đã có tác động tới nhiều mặt và đạt kết quả to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, góp phần khuyến khích đầu tư và thay đổi cơ cấu kinh tế, giúp Nhà nước nắm được tình hình của doanh nghiệp để có chính sách đúng đắn trong quản lý vĩ mô, sắp xếp lại doanh nghiệp, thúc đẩy cơ sở kinh doanh tăng cường hạch toán kinh doanh, củng cố công tác hóa đơn chứng từ, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, nâng cao ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế TNDN. Kết quả của việc thực hiện chính sách thuế TNDN trong thời gian qua được thể hiện cụ thể:
- Khu vực kinh tế Quốc doanh là đối tượng nộp thuế chiếm tỉ lệ nguồn thu cao nhất cho NSNN. Đây là kết quả phản ánh việc đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước đã giúp các doanh nghiệp này làm ăn có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do việc sắp xếp và cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện cổ phần hóa nên số lượng các doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm đi, dẫn đến số thu từ khu này có xu hướng chậm lại.
- Đối tượng nộp thuế là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được mở rộng, do các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều vì Việt Nam có nhiều chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có ưu đãi về thuế suất và thời gian miễn giảm thuế TNDN; đồng thời Việt Nam là thị trường tiềm năng, chi phí nhân công rẻ, nguồn nhân lực dồi dào... Tuy nhiên, vấn đề còn tồn tại là nước ta chưa có hệ thống pháp luật rõ ràng, cơ sở hạ tầng yếu kém, thông tin cho các nhà đầu tư nước ngoài còn thiếu. Điều này dẫn đến các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại khi đầu tư vào Việt Nam.
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là đối tượng nộp thuế tiềm năng trong những năm trở lại đây, trong khi đó số thuế TNDN từ hộ kinh doanh cá thể thì tăng giảm không ổn định. Điều này chứng tỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và thể hiện được hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình với sự tăng lên không ngừng về quy mô, số lượng và cả chất lượng.
Cùng với việc gia tăng vốn đầu tư thì đối tượng nộp thuế là các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cũng ngày càng được mở rộng. Đẻ có được sự tăng trưởng như vậy tất nhiên không chỉ do việc ưu đãi thuế TNDN mang lại mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như ý chí kinh doanh của các nhà đầu tư, sự hỗ trợ của Nhà nước, nhu cầu của nền kinh tế... Tuy vậy chúng ta vẫn phải khẳng định sự ảnh hưởng lớn của luật thuế TNDN vì nó được sử dụng như một công cụ của Nhà nước để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh những thay đổi đáng kể mang tính tích cực, Luật thuế TNDN nói chung và các quy phạm pháp luật quy định về đối tượng nộp thuế TNDN nói riêng vẫn còn thể hiện nhiều bất cập cần khắc phục. Cụ thể như: Xét trên thực tế trong những năm qua mức ưu đãi thuế của Việt Nam là tương đối cao và đã góp phần tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài nhưng phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng chỉ tập trung tại các tỉnh, vùng kinh tế đã phát triển, có nhiều thuận lợi như Hà Nội, Hải Phòng... Một số địa phương thì sự ưu đãi chỉ mang tính chất danh nghĩa vì chưa thể thu hút được đầu tư, như các vùng núi cao, hải đảo.
Nguyên nhân những nhược điểm này là do trình độ, hiệu quả của nền kinh tế và của doanh nghiệp Việt Nam hiện này còn nhỏ, công nghệ còn lạc hậu. Để mở rộng đối tượng nộp thuế TNDN của thành phần kinh tế này, Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho các địa bàn trên cả nước để hấp dẫn được các nhà đầu tư nước ngoài.
III/ Đánh giá về chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008:
1/ Nội dung cơ bản của chính sách thuế TNDN về đối tượng nộp thuế theo Luật thuế TNDN năm 2008:
* Tại điều 2 Luật thuế TNDN của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, số 14/2008/QH12 ngày 03/06/2008 quy định về đối tượng nộp thuế TNDN bao gồm các đối tượng sau:
- Người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế theo quy định của Luật này (sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm: doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau đây gọi là doanh nghiệp nước ngoài) có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; tổ chức được thành lập theo Luật hợp tác xã; đơn vị sự nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam; tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh có thu nhập.
- Doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật thuế TNDN phải nộp thuế như sau: doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam; doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó; doanh nghiệp nước ngoài có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam mà khoản thu nhập này không liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú; doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.
- Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập, bao gồm: chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam; địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ chức, cá nhân khác; đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài; đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
* Ngoài ra, pháp luật thuế mới theo Luật thuế TNDN năm 2008 còn quy định về đối tượng nộp thuế đối với các khoản tiền tài trợ từ nước ngoài, cụ thể là: Trước thời điểm 01/01/2004, khoản tiền tài trợ Công ty mẹ ở nước ngoài tài trợ cho Công ty con tại Việt Nam nhằm gánh chịu một phần chi phí (không phải chi thưởng cho nhân viên) tại Việt Nam thì khoản tiền này không thuộc đối tượng phải chịu thuế GTGT và không tính thuế TNDN.
Công ty con tại Việt Nam phải loại ra khỏi chi phí khoản chi phí do công ty mẹ ở nước ngoài đã gánh chịu khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Nếu khoản tiền này được dùng để chi thưởng cho nhân viên thì Công ty sẽ không được hạch toán vào chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
Kể từ ngày 01/01/2004, trường hợp Công ty mẹ ở nước ngoài chuyển tiền cho Công Ty TNHH giao nhận hàng hoá I.E. tại Việt Nam để khen thưởng cho các cá nhân của công ty TNHH giao nhận hàng hóa I.E. thì số tiền nêu trên là khoản thu nhập của công ty TNHH giao nhận hàng hoá I.E. và phải nộp thuế TNDN theo quy định tại Điểm 18, mục V, phần B Thông tư số 128/2004/TT-BTC ngày 22/12/2003 của Bộ tài chính hướng dẫn Nghị định số 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành thuế TNDN. Khoản tiền này không thuộc đối tượng phải chịu thuế GTGT.
Các khoản chi cho người lao động phù hợp với hợp đồng lao động, quy chế công ty có tính chất tiền lương, tiền công được hạch toán vào chi phí hợp lý. Các khoản tiền chi thưởng cho nhân viên không được hạch toán vào chi phí hợp lý của công ty khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
* Để khuyến khích tổng thể nền kinh tế, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp có điều kiện tăng tích lũy, thêm nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và cũng là tăng khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, luật thuế TNDN năm 2008 mới còn có những quy định về về ưu đãi thuế TNDN , cụ thể như:
- Mở rộng diện ưu đãi.
- Hạ thuế chung từ 28% xuống 25%.
- Lập Quỹ phát triển khoa học & công nghệ: Trích tối đa 10% thu nhập trước thuế.
- Ưu đãi nhằm thu hút đầu tư.
- Thuế suất ưu đãi có thời hạn 10% & 20% (bỏ mức thuế 15%).
- Miễn giảm thuế có thời hạn.
- Thuế suất 10% trong 15 năm, miễn tối đa 4 năm, giảm thuế 50% tối đa 9 năm tiếp theo đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Khu kinh tế, Khu công nghệ cao; doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, sản xuất sản phẩm phần mềm.
Trường hợp đặc biệt thu hút đầu tư có quy mô lớn và công nghệ cao thì thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi có thể kéo dài thêm (tối đa không quá 15 năm).
- Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao và môi trường được áp dụng thuế suất 10% trong suốt thời hạn hoạt động. Nếu là doanh nghiệp mới thành lập thì được miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% thuế tối