Đề tài Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008Thực trạng và giải pháp

Giao thông đường bộ là một bộ phận quan trong của giao thông vận tải nói riêng và của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói chung, nó có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, đóng góp to lớn vào nhu cầu đi lại của nhân dân, nâng cao giao lưu với các vùng, xoá đi khoảng cách về địa lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa phương, từng ngành, xoá đói giảm nghèo, củng cố an ninh quốc phòng…Tuy nhiên hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ giao thông đường bộ của nước ta trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế làm cản trở nhiều tới mục tiêu phát triển chung của đất nước, làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế đặc biệt là các nguốn vốn nước ngoài và giảm tốc độ công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, cản trở tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Để có thể phát huy được tối đa vai trò của mình thì yêu cầu đặt ra là trong thời gian tới là cần phải phát triển ngành giao thông đường bộ nói riêng và giao thông vận tải nói chung cần phải đi trước một bước, điều này đã được nhà nước rất quan tâm và tạo nhiều điều kiện để phát triển.Trong thời gian qua vốn ngân sách nhà nước dành cho phát triển giao thông đường bộ luôn chiếm tỷ trọng cao so với những ngành khác, nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng đã phát huy được những hiệu quả nhất định và vẫn luôn là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường bộ tuy nhiên công tác sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong thời gian qua cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục nhằm tránh lãng phí nguồn vốn ngân sách trong điều kiện nước ta còn là nước đang phát triển và còn rất nhiều mục tiêu cần thực hiện và ngân sách nhà nước cũng tương đối hạn hẹp. Để giải quyết vấn đề trên, sau một thời gian được thực tập và nghiên cứu tại phòng đầu tư trung ương-Vụ đầu tư-Bộ tài chính và được sự tư vấn, hướng dẫn của các cô chú trong Vụ cùng với giáo viên hướng dẫn em đã quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008.Thực trạng và giải pháp”.

doc69 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 4129 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU             Giao thông đường bộ là một bộ phận quan trong của giao thông vận tải nói riêng và của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói chung, nó có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, đóng góp to lớn vào nhu cầu đi lại của nhân dân, nâng cao giao lưu với các vùng, xoá đi khoảng cách về địa lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa phương, từng ngành, xoá đói giảm nghèo, củng cố an ninh quốc phòng…Tuy nhiên hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ giao thông đường bộ của nước ta trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế làm cản trở nhiều tới mục tiêu phát triển chung của đất nước, làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế đặc biệt là các nguốn vốn nước ngoài và giảm tốc độ công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, cản trở tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới.             Để có thể phát huy được tối đa vai trò của mình thì yêu cầu đặt ra là trong thời gian tới là cần phải phát triển ngành giao thông đường bộ nói riêng và giao thông vận tải nói chung cần phải đi trước một bước, điều này đã được nhà nước rất quan tâm và tạo nhiều điều kiện để phát triển.Trong thời gian qua vốn ngân sách nhà nước dành cho phát triển giao thông đường bộ luôn chiếm tỷ trọng cao so với những ngành khác, nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng đã phát huy được những hiệu quả nhất định và vẫn luôn là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường bộ tuy nhiên công tác sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong thời gian qua cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục nhằm tránh lãng phí nguồn vốn ngân sách trong điều kiện nước ta còn là nước đang phát triển và còn rất nhiều mục tiêu cần thực hiện và ngân sách nhà nước cũng tương đối hạn hẹp.             Để giải quyết vấn đề trên, sau một thời gian được thực tập và nghiên cứu tại phòng đầu tư trung ương-Vụ đầu tư-Bộ tài chính và được sự tư vấn, hướng dẫn của các cô chú trong Vụ cùng với giáo viên hướng dẫn em đã quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008.Thực trạng và giải pháp”.             Kết cấu của đề tài như sau:             Chương I: Những vấn đề chung về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN             Chương II:Thực trạng đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam bằng nguồn vốn NSNN             Chương III:Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam . Chương I :Những vấn đề chung về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN 1. Những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. 1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ. 1.1.1.Khái niệm.             Đầu tư phát triển giao thông đường bộ(GTĐB) là 1 phần của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) vì vậy trước khi tìm hiểu hiểu về khái niệm của GTVT ĐB chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm về CSHT.             CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cầu kinh tế của một xã hội, là tổ hợp các công trình vật chất kĩ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp dịch vụ sản xuất, đời sống của dân cư được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định.             Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển thì quá trình sản xuất chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đó thì cần phải có sự tham gia của CSHT thì mới tạo ra được sự phát triển tối ưu nhất bởi lẽ CSHT có vai trò quyết định đến kiến trúc thượng tầng hay tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. CSHT chỉ thực sự phát triển sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào thế kỉ thứ 19.             CSHT được chia làm 3 nhóm chính: CSHT kỹ thuật, CSHT xã hội, CSHT môi trường :             +CSHT kỹ thuật bao gồm các công trình và phương tiện vật chất phục vụ cho sản suất và đời sống sinh hoạt của xã hội như các con đường, hệ thống điện, bưu chính viễn thông,…             +CSHT xã hội là các công trình và phương tiện để duy trì và phát triển các nguồn lực như các cơ sở giáo dục đào tạo, các cơ sở khám chữa bệnh, và các cơ sở đảm bảo đời sống và nâng cao tinh thần của nhân dân như hệ thống công viên, các công trình đảm bảo an ninh xã hội.             +CSHT môi trường bao gồm các công trình phục vụ cho bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước cũng như môi trường sống của con người như các công trình xử lý nước thải, rác thải…             *Khái niệm GTĐB: GTĐB là một bộ phận của CSHT kỹ thuật bao gồm toàn bộ hệ thống cầu đường phục vụ cho nhu cầu đi lại của người dân cũng như nhu cầu giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội giữa những người dân trong cùng một vùng hay giữa vùng này với vùng khác hoặc giữa nước này với nước khác. 1.1.2. Đặc điểm đầu tư hạ tầng phát triển giao thông đường bộ.             GTĐB là các kết quả của các dự án đầu tư phát triển nên nó mang đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển là :             -GTĐB là các công trình xây dựng nên nó có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và thường thông qua các hoạt động kinh tế khác để có thể thu hồi vốn.Do đó vốn đầu tư chủ yếu để phát triển GTĐB ở Việt Nam là từ nguồn vốn NSNN.             -Thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động, nhiều công trình có thời gian kéo dài hàng chục năm.             - Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài: thời gian này được tính từ khi công trình đi vào hoạt động cho đến khi hết hạn sử dụng và đào thải công trình.             -Các thành quả của hoạt động đầu tư thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được xây dựng .             - Vì đầu tư phát triển GTĐB đòi hỏi cần có vốn đầu tư lớn cùng với thời kì đầu tư kéo dài nên nó thường có độ rủi ro cao trong đó có nguyên nhân chủ quan là do công tác quy hoạch ở nước ta còn nhiều hạn chế nên nhiều công trình xây dựng không phát huy được hiệu quả cần thiết.             Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư phát triển thì đầu tư phát triển GTĐB cũng có những đặc điểm riêng của nó:             *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính hệ thống và đồng bộ:             Tính hệ thống và đồng bộ là một đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư phát triển GTĐB.Tính hệ thống và đồng bộ được thế hiện ở chỗ mọi khâu trong quá trình đầu tư phát triển GTĐB đều liên quan mật thiết với nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt động đầu tư: bất kì sai lầm nào từ khâu kế hoạch hoá hệ thống GTĐB đến khâu lập dự án hay thẩm định các dự án đường bộ…cũng sẽ ảnh hưởng đến quá trình vận hành của toàn bộ hệ thống đường bộ và gây ra những thiệt hại lớn không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội.Tính hệ thống và đồng bộ không những chi phối đến các thiết kế,quy hoạch mà còn được thế hiện ở cả cách thức tổ chức quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ.Chính đặc điểm này đã đòi hỏi khi lập kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển GTĐB không được xem xét tới lợi ích riêng lẻ của từng dự án mà phải xét trong mối quan hệ tổng thể của toàn bộ hệ thống để đảm bảo được tính đồng bộ và hệ thống của toàn bộ mạng lước GTĐB tránh tình trạng có một vài dự án ảnh hưởng đến chất lượng của toàn bộ hệ thống.             *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính định hướng:             Đây là đặc điểm xuất phát từ chức năng và vai trò của hệ thống GTĐB.Chức năng chủ yếu của GTĐB là thoả mãn nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của người dân cũng như của các doanh nghiệp, GTVT đường bộ được coi là huyết mạch của nền kinh tế đảm bảo giao thương giữa các vùng miền và mở đường cho các hoạt động kinh doanh phát triển hơn nữa hoạt động đầu tư phát triển GTĐB cũng cần phải có một lượng vốn lớn cũng như cần thực hiện trong khoảng thời gian dài do đó để đảm bảo đầu tư được hiệu quả và loại trừ được các rủi ro thì cần phải có những định hướng lâu dài.GTĐB cần mang tính định hướng vì nó là ngành đi tiên phong thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.             *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính chất vùng và địa phương:             Việc xây dựng và phát triển GTĐB phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như đặc điểm địa hình, phong tục tập quán của từng vùng từng địa phương, trình độ phát triển kinh tế của mỗi nơi và quan trọng nhất là chính sách phát triển của nhà nước…Do đó đầu tư phát triển GTĐB mang tính vùng và địa phương nhằm đảm bảo cho mỗi vũng và địa phương phát huy được thế mạnh của mình và đóng góp lớn vào sự phát triển chung của cả nước.Vì vậy trong kế hoạch đầu tư phát triển GTĐB không chỉ chủ yếu đến mục tiêu phát triển chung của cả nước mà phải chú ý cả đến điều kiện, đặc điểm tự nhiên cũng như kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ.               *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính xã hội hoá cao và có nhiều đặc điểm giống với hàng hoá công cộng:             Các công trình GTĐB là những hàng hoá công cộng vì mục đích sử dụng của nó là để phục vụ cả chức năng sản xuất và đời sống; là tổng hoà mục đích của nhiều ngành, nhiều người, nhiều địa phương và của toàn xã hội. Điều này cho thấy đầu tư phát triển GTĐB cần phải giải quyết cả mục tiêu phát triển kinh tế và cả mục tiêu cộng đồng mang tính chất phúc lợi xã hội. Điều này là rất quan trọng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam trong điều kiện NSNN của hạn hẹn cùng với đó là thu nhập của người dân vẫn còn thấp nên không thế đáp ứng hết nhu cầu đầu tư phát triển GTĐB. 1.2.Vai trò của đầu tư phát triền giao thông đường bộ.             Việt Nam là quốc gia nằm ở cực đông nam của bán đảo Đông Dương có diện tích khoảng 330.991 km2 nằm trải dài từ bắc tới nam với chiều dài khoảng 1650 km do đó hệ thống đường bộ có một vị trí rất quan trọng.Giao thông vận tải bằng đường bộ là loại hình vận tải có chi phí thấp, thuận lợi đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại của con người là rất lớn.Xây dựng hạ tầng GTĐB tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển, giao lưu văn hoá, hội nhập quốc tế và bảo vệ an ninh quốc gia. 1.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế.             Những đóng góp tích cực của hệ thống giao thông đường bộ vào sự phát triển kinh tế là rất rõ ràng và được thế hiện ở các vai trò sau:             -GTĐB góp phần thu hút đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, rút ngắn được khoảng cách địa lý giữa các tỉnh thành trong cả nước do đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, rút ngắn trình độ phát triển kinh tế giữa các địa phương, tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương và thúc đẩy các địa phương phát triển kinh tế.Hệ thống GTĐB phát triển sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các vùng và địa phương với nhau, giữa quốc gia này với quốc gia khác từ đó sẽ tìm ra được những cơ hội đầu tư tốt và tiến hành đầu tư, các hoạt động xúc tiến thương mại phát triển cùng với đó là thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho mục tiêu phát triển kinh tế.             -GTĐB góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua kích thích tạo việc làm và tăng năng suất lao động.Sự phát triển của hạ tầng giao thông đường bộ đã góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong thời gian qua.Các công trình GTĐB sẽ thu hút một lượng lớn lao động do đó góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp cho quốc gia, mặt khác khi vốn đầu tư cho hệ thống GTĐB lớn sẽ kích thích thu hút vốn đầu tư cho các ngành trực tiếp sản xuất sản phẩm phục vụ cho sự phát triển của các công trình giao thông như sắt, thép, xi măng, gạch …             -Hạ tầng GTĐB phát triển sẽ đóng góp tích cực vào việc tiết kiệm chi phí và thời gian vận chuyển, từ đó tạo điều kiện giảm giá thành sản phẩm, kích thích tiêu dùng và phát triển của các ngành khác.Trong các loại hình vận tải ở Việt Nam thì vận tải bằng đường bộ chiếm tỷ trọng lớn nhất do đó nếu hạ tầng GTĐB tốt sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, và có thể lấy số chi phí tiết kiệm được để thực hiện phát triển các ngành khác. 1.2.2.Phát triển văn hoá-xã hội.             Phát triển văn hoá xã hội là phát triển đời sống tinh thần của người dân, điều nay góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của quốc gia.Dân số Việt Nam tính đến năm 2008 là khoảng hơn 100 triệu người đến từ các dân tộc khác nhau và sống trong các vùng không đồng đều về lịch sự, địa lý… do đó đời sống tinh thần cũng khác nhau đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh.Nhờ có hạ tầng GTĐB phát triển mà khoảng cách đó ngày càng được xoá bỏ, sự giao lưu văn hoá giữa các vùng ngày càng đuợc tăng cường và làm phong phú thêm đời sống của người dân Việt từ đó kích thích người dân hăng say lao động đóng góp vào sự phát triển của đất nước.             Hệ thống đường bộ phát triển sẽ nảy sinh các ngành nghề mới, các cơ sở sản xuất mới phát triển từ đó tạo cơ hội việc làm và sự phát triển không đồng đều giữa các vùng cũng được giảm, hạn chế sự di cư bất hợp pháp từ nông thôn ra thành thị, hạn chế được sự phân hoá giàu nghèo và từ đó giảm được các tệ nạn xã hội góp phần tích cực vào bảo vệ môi trường sinh thái. 1.2.3. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.             Mục tiêu quan trọng của bất kì một doanh nghiệp nào khi hoạt động cũng đều là lợi nhuận.Có nhiều cách để doanh nghiệp áp dụng để có được lợi nhuận tối đa và một trong những cách đó là giảm chi phí một cách tối thiểu.Hạ tầng GTĐB sẽ đóng góp đáng kể vào việc giảm chi phí của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có chi phí vận tải chiếm một tỷ trọng lớn.Khi hạ tầng GTĐB phát triển thì các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí nhiên liệu, chi phí vận chuyển hàng hoá tới nơi tiêu thụ, chi phí nhập nguyên liệu; ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể tiết kiệm được một số chi phí khác như chi phí quản lý và bảo quản hàng hoá, chi phí lưu trữ hàng tồn kho…Nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm và nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.Hệ thống GTĐB phát triển cũng sẽ giúp các doanh nghiệp giao hàng đúng nơi và đúng thời gian từ đó tạo được uy tín cho doanh nghiệp, trong kinh doanh thì điều này là rất quan trọng.Mặt khác khi giao thông đường bộ phát triển thì sản phẩm dễ dãng đến tay người tiêu dùng do đó hàng hóa sẽ được tiêu thụ nhanh hơn, điều này sẽ rút ngắn thời gian quay vòng vốn và làm tăng hiệu quả sử dụng vốn cũng như tăng hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp. 1.2.4.Bảo đảm an ninh quốc phòng.             Hệ thống GTĐB đóng góp tích cực vào việc giữ gìn trật tự an ninh xã hội, và bảo vệ quốc phòng.Với hạ tầng GTĐB hiện đại sẽ giảm thiểu đuợc tình trạng ùn tắc đường đang xảy ra trong thời gian qua đặc biệt là ở các thành phố lớn, giảm tai nạn giao thông, giữ gìn trật tự xã hội. Đây là một trong những vấn đề mà đảng và chính phủ đang rất quan tâm.             Hơn nữa, hệ thống GTĐB phát triển sẽ góp phần bảo vệ biên giới của đất nước.GTĐB phát triển góp phần nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức của người dân đặc biệt là các dân tộc ở vùng xâu vùng xa từ đó đảm bảo sự ổn định về chính trị quốc gia. 1.2.5. Đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế.             Hội nhập và giao lưu kinh tế về mọi mặt đang là xu hướng diễn ra mạnh mẽ giữa các nước trong khu vực và trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó.Hiện nay thì hạ tầng GTĐB của nước ta còn ở mức yếu so với các nước trong khu vực nên ảnh hưởng lớn khả năng hội nhập và giao lưu với các nước.Chính vì vậy mà Việt Nam đang xúc tiến để xây dựng các hệ thống đuờng xuyên quốc gia góp phần mở rộng giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các nước. 1.3. Nguồn vốn  NSNN đầu tư phát triển giao thông đường bộ. 1.3.1.Khái niệm về vốn ngân sách nhà nước.             *Khái niệm về vốn:             Vốn là một nhân tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất xã hội, là toàn bộ tài sản mà nền kinh tế có được trong quá trình xây dựng và phát triển.Nó đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển của mọi hình thái kinh tế-xã hội.Về bản chất vốn đầu tư là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội và vốn đầu tư được thể hiện dưới hai hình thái là hiện vật và giá trị.Vốn hiện vật không chỉ tồn tại dưới dạng các tài sản hữu hình như các loại máy móc, nhà xưởng, thiết bị… mà nó còn tồn tại dưới dạng các tài sản vô hình như bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, lợi thế thương mại hay thương hiêụ, trình độ của nguồn nhân lực.Trong giai đoạn phát triển hiện nay, vốn nhân lực đóng một vai trò quyết định có thể thay thế một phần các loại vốn khác.             Ở mỗi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền kinh tế, là phần tiết kiệm sau khi tiêu dùng của cá nhân và của chính phủ và đây được coi là nguồn vốn quan trọng nhất cho sự phát triển của một quốc gia, là nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng và sự phát triển bền vững của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong các lĩnh vực khác.Ngoài nguồn vốn tích luỹ từ trong nước,các quốc gia còn có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.             -Nguồn vốn trong nước  bao gồm nguồn bốn từ NSNN,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, và nguồn vốn của dân cư và tư nhân…             -Nguồn vốn từ nước ngoài bao gồm các nguồn vốn như vốn đầu tư trực tiếp(FDI), vốn đầu tư gián tiếp(ODA)…             Trong các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài thì nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò là cú hích cho sự phát triển của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam .             *Khái niệm vốn NSNN:             NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.             Theo điều 7 của luật ngân sách nhà nước: Quỹ ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản tiền của nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của ngân sách nhà nước các cấp.Do khả năng huy động vốn ngân sách có hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu tư hàng năm lại rất lớn nên vốn đầu tư NSNN ở nước ta trong những năm qua được cân đối từ nguồn tích luỹ của ngân sách và các khoản vay trong nước và nước ngoài.             Vốn NSNN bao gồm vốn trong nước( vốn tích luỹ của NSNN, nguồn vốn tín dụng của nhà nước) và vốn nước ngoài(vay nợ, viện trợ).Số tiền này sẽ được thanh toán trực tiếp cho việc thực hiện các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia theo kế hoạch chi đầu tư phát triển được duyệt hàng năm.             -Vốn trong nước bao gồm:             +Vốn tích luỹ của NSNN: đây là phần chênh lệch giữa các khoản thu( không kể vay nợ) với chi tiêu dùng thường xuyên của NSNN. Đối với vốn tích luỹ NSNN cần áp dụng các chính sách huy động và tiết kiệm triệt để và có hiệu quả như vừa tăng thu NSNN, vừa tiết kiệm các khoản chi tiêu dùng của NSNN.             +Nguồn vốn tín dụng của nhà nước: được huy động thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và các hình thức vay nợ qua kho bạc nhà nước.             -Vốn nước ngoài là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, thông qua vay nợ và viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Đây là nguồn vốn quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách và được ưu tiên để phát triển kinh tế xã hội.Hiện nay việc đưa ODA vào ngân sách để quản lý đạt 15% đến 20%. 1.3.2. Đặc điểm vốn ngân sách trong phát triển giao thông đường bộ.             Hạ tầng GTĐB là một bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nói riêng và của kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nói chung và sự phát triển của hạ tầng GTĐB góp phần nâng cao năng lực của nền kinh tế, là tiền đề thúc đẩy các ngành khác phát triển do đó vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cũng có những đặc điểm riêng so với vốn đầu tư phát triển các ngành khác:             -Vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB phải đảm bảo về mặt vật chất sao cho tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế khác đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, tiết kiệm chi phí cho xã hội và tài nguyên củ
Luận văn liên quan