Hoạt động đầu tư phát triển đối với 1 Doanh nghiệp là vô cùng quan trọng vì nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, phải làm sao cho hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp trở nên có hiệu quả cao nhất không phải là 1 điều đơn giản đối với tất cả các doanh nghiệp. Cho đến nay khái niệm đầu tư phát triển không còn gì xa lạ với những doanh nghiệp sản xuất cũng như kinh doanh sản phẩm dịch vụ, song việc nhìn nhận, thực hiện có hiệu quả các nội dung của hoạt động đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp đối với mọi doanh nghiệp không phải là dễ dàng.
Không ngoại lệ, công ty cổ phần Hải Hưng cũng nhận thức rõ được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển. Từ khi thành lập năm 2002, công ty cổ phần Hải Hưng luôn quan tâm chú trọng đến hoạt động đầu tư phát triển của công ty. Đến nay trải qua hơn 10 năm hoạt động, công ty đã đạt những kết quả kinh doanh đáng kể.
Tuy nhiên, công ty cũng không tránh khỏi có những khó khăn và hạn chế trong hoạt động đầu tư phát triển,khiến cho hoạt động đầu tư phát triển không đạt được kết quả và hiệu quả như mong muốn. Qua quá trình tìm hiểu tình hình thực tế hoạt động đầu tư phát triển của công ty cùng những kiến thức đã được học, em đã quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải Hưng” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
88 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3969 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.
Hoạt động đầu tư phát triển đối với 1 Doanh nghiệp là vô cùng quan trọng vì nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, phải làm sao cho hoạt động đầu tư của Doanh nghiệp trở nên có hiệu quả cao nhất không phải là 1 điều đơn giản đối với tất cả các doanh nghiệp. Cho đến nay khái niệm đầu tư phát triển không còn gì xa lạ với những doanh nghiệp sản xuất cũng như kinh doanh sản phẩm dịch vụ, song việc nhìn nhận, thực hiện có hiệu quả các nội dung của hoạt động đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp đối với mọi doanh nghiệp không phải là dễ dàng.
Không ngoại lệ, công ty cổ phần Hải Hưng cũng nhận thức rõ được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển. Từ khi thành lập năm 2002, công ty cổ phần Hải Hưng luôn quan tâm chú trọng đến hoạt động đầu tư phát triển của công ty. Đến nay trải qua hơn 10 năm hoạt động, công ty đã đạt những kết quả kinh doanh đáng kể.
Tuy nhiên, công ty cũng không tránh khỏi có những khó khăn và hạn chế trong hoạt động đầu tư phát triển,khiến cho hoạt động đầu tư phát triển không đạt được kết quả và hiệu quả như mong muốn. Qua quá trình tìm hiểu tình hình thực tế hoạt động đầu tư phát triển của công ty cùng những kiến thức đã được học, em đã quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải Hưng” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề về lý luận có tính khoa học đối với hoạt động sử dụng vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải Hưng
Đánh giá thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải Hưng.
Đề xuất các giải pháp cụ thể để tăng cường sử dụng hiệu quả vốn đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Hải Hưng trong thời gian sắp tới.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu tình hình sử dụng vốn đầu tư tại doanh nghiệp
Phạm vi nghiên cứu:chuyên đề tập trung nghiên cứu tình hình sử dụng vốn đầu tư tại công ty cổ phần Hải Hưng từ năm 2010 đến năm 2012, định hướng phát triển của công ty cổ phần Hải Hưng đến năm 2015.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, phương pháp dự báo, phương pháp suy luận logic để phân tích, đánh giá. Kế thừa một số kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu có liên quan đến vốn đầu tư phát triển tại địa bản tỉnh Kon Tum và công ty cổ phần Hải Hưng.
Các kết quả chính của đề tài:
Hệ thống các vấn đề lí luận và thực tiễn, các nhân tố tác động, kinh nghiệm của một số công ty trong cả nước nói chung và tỉnh Kon Tum nói riêng, rút ra bài học kinh nghiệm. Đánh giá thực trạng đầu tư phát triển trong công ty cổ phần Hải Hưng.
Nội dung của đề tài:
Chuyên đề tốt nghiệp này ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Công ty cổ phần Hải Hưng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động đầu tư phát triển tại công ty cổ phần Công ty cổ phần Hải Hưng.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP
Bản chất của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Khái niệm về đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong doanh nghiệp nói riêng.
Đầu tư, đầu tư phát triển.
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai. Tuy nhiên, đứng dưới các góc độ khác nhau thì nó cụ thể như sau:
Theo quan điểm tài chính: đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn sinh lời.
Theo góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về một mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai.
Để có thể hiểu rõ bản chất của hoạt động đầu tư chúng ta cần làm rõ những yếu tố như: nguồn lực đầu tư, hoạt động đầu tư, đối tượng của hoạt động đầu tư.
Nguồn lực đầu tư: theo nghĩa hẹp được hiểu là bao gồm tiền vốn, còn theo nghĩa rộng nó bao gồm vốn bằng tiền, đất đai, máy móc, lao động.
Mục tiêu của hoạt động đầu tư: bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn liền với doanh nghiệp, chủ đầu tư; những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về mặt xã hội mà do hoạt động đầu tư tạo nên.
Đối tượng của hoạt động đầu tư: đầu tư vào tài sản hữu hình (tài sản vật chất), đầu tư vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển, dịch vụ, quảng cáo, thương hiệu), đầu tư vào tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền.
Đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực trí tuệ và lao động để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển từ đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế.
Vốn đầu tư
Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng: vốn đầu tư được hiểu là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
Nguồn vốn đầu tư.
Là cụm từ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm: nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Vai trò của đầu tư phát triển.
Trên góc độ vĩ mô.
Đầu tư là nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Về mặt lý luận, hầu hết các tư tưởng, mô hình và lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều trực tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận đầu tư và việc tích lũy vốn cho đầu tư là một nhân tố quan trọng cho việc gia tăng năng lực sản xuất, cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith trong cuốn “của cải của các dân tộc” đã cho rằng vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu của số lao động hữu dụng và hiệu quả. Việc gia tăng quy mô vốn đầu tư sẽ góp phần quan trọng trong việc gia tăng sản lượng quốc gia và sản lượng bình quân của mỗi lao động. Theo mô hình của Harrod – Domar, mức tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc trực tiếp vào mức độ gia tăng vốn đầu tư thuần.
g =DY/Y =DY/Y *DK/DK =DY/DK *DK/Y = 1/ICOR *I/Y
Từ đó có thể suy ra: DY =1/ICOR *I
Trong đó:
DY: mức gia tăng sản lượng
DK: mức gia tăng vốn đầu tư
I: mức đầu tư đơn thuần
K: tổng quy mô vốn của nền kinh tế
Y: tổng sản lượng của nền kinh tế
ICOR: hệ số gia tăng vốn – sản lượng
Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thể hiện cũng rất rõ nét trong tiến trình đổi mới của nền kinh tế nước ta thời gian qua. Với chính sách đổi mới, các nguồn vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài ngày càng được đa dạng hóa và gia tăng về quy mô, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt được cũng rất thỏa đáng. Cuộc sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận dân cư ngày càng được cải thiện.
Đầu tư tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính sách đầu tư, nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như thực hiện chính sách phân bổ vốn, kế hoạch hóa, xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng 1 cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý hơn.
Kinh nghiệm của nhiều nước đi trước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo đà cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng phân bổ vốn cho các ngành khác nhau sẽ mang lại hiệu quả và kết quả khác nhau. Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế vùng và cũng đồng thời đến tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Không những thế, giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng như dịch chuyển cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít với nhau. Việc đầu tư vốn nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng nhanh trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý. Ngược lại tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn.
Đầu tư tác động làm tăng năng lực khoa học công nghệ của đất nước
Đầu tư và đặc biệt là đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất lượng và năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở. Chính vì vậy, đầu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia theo cơ cấu kỹ thuật của đầu tư, trong giai đoạn vừa qua, tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư của Việt Nam chiếm khoảng 28% (xây dựng chiếm khoảng 57%).
Cơ cấu này chưa phản ánh đúng yêu cầu CNH – HĐH, tuy nhiên nó cũng là con số không nhỏ tạo ra năng lực công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế. Đối với đầu tư nước ngoài, hoạt động của doanh nghiệp FDI thường gắn với các chương trình chuyển giao công nghệ trong đó nước nhận vốn cũng có thể là điểm đến của một số công nghệ và phương thức sản xuất mới. Đối với chi đầu tư của Nhà nước cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới mặc dù vẫn còn nhỏ về quy mô, thấp về tỷ trọng (giai đoạn 2001 – 2005 là 7,6 nghỉn tỷ đồng chiếm 0,9% vốn đầu tư toàn xã hội) nhưng ở đây cũng là một trong những biểu hiện của đầu tư và ở mức độ nhận định nó cũng có tạo ra và tăng cường năng lực khoa học công nghệ nước ta (đạt được những thành tựu nhất định trong lĩnh vực nông nghiệp: giống mới, công nghệ gen,…)
Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế.
Đầu tư là một bộ phận quan trọng của tổng cầu (AD = C + I + G – M). Vì vậy, khi quy mô đầu tư thay đổi cũng sẽ có tác động trực tiếp tới quy mô tổng cầu. Tuy nhiên, tác động của đầu tư đến tổng cầu là ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng kéo theo sự gia tăng của sản lượng và giá cả các yếu tố đầu vào. Trong dài hạn, khi các thành quả của đầu tư đã được huy động và phát huy tác dụng, năng lực sản xuất và cung ứng dịch vụ gia tăng thì tổng cung cũng sẽ tăng lên. Khi đó sản lượng tiềm năng sẽ tăng và đạt mức cân bằng trong khi giá cả của sản phẩm sẽ có xu hướng đi xuống. Sản lượng tăng trong khi giá cả giảm sẽ kích thích tiêu dùng và hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ của nền kinh tế.
Trên góc độ vi mô
Trên góc độ vi mô thì nhà đầu tư là nhân tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của các cơ sở sản xuất cung ứng dịch vụ và của cả các đơn vị vô vị lợi. Để tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở đơn vị sản xuất và cung ứng dịch vụ nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác và thực hiện các chi phí gắn liền với hoạt động trong một chu kỳ chứa các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Đây chính là biểu hiện cụ thể của hoạt động đầu tư đối với các đơn vị đang hoạt động, khi các cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng cần phải tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Đó chính là hoạt động đầu tư.
Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có và vì thế là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác, đó là:
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của hoạt động đầu tư phát triển bởi vì trong suốt quá trình đầu tư nó vẫn nằm dưới dạng các công trình dở dang, do vốn lớn nên các nhà đầu tư cần phải cân nhắc lựa chọn đầu tư vào đâu cho có hiệu quả cao nhất, phải nghiên cứu thị trường,… Vốn nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư nên ảnh hưởng tới chi phí sử dụng, quản lý vốn (thời gian, chi phí, chất lượng) và khả năng cạnh tranh trên thị trường nếu vốn nằm khê đọng quá dài thì sẽ bỏ lỡ thời cơ và cơ hội cạnh tranh.
Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài: thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng, nó phụ thuộc vào giai đoạn thực hiện đầu tư. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn hoặc thanh lý tài sản cũng kéo dài, điều này chịu tác động của cung cầu thị trường, của các yếu tố đầu vào hay đầu ra của dự án. Thời gian thực hiện đầu tư dài còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không dự đoán ảnh hưởng đến quá trình thực hiện: môi trường, điều kiện tự nhiên, pháp lý, kinh tế, chính trị. Điều này có thể thay đổi kết quả và hiệu quả của đầu tư.
Hơn nữa thời gian của hoạt động đầu tư phát triển kéo dài nên mang tính rủi ro cao. Vì vậy cần phải phân tích kỹ để loại trừ hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro như: trong trường hợp rủi ro nhất thì hiệu quả của dự án là bao nhiêu, những rủi ro nào có thể xảy ra nhất; trong trường hợp thuận lợi nhất thì hiệu quả đạt được bao nhiêu để bù lại trong trường hợp rủi ro. Tuy nhiên đối với những yếu tố rủi ro bất định, bất khả kháng thì chúng ta phải chấp nhận.
Các thành quả của các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm năm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng (kim tự tháp Ai Cập, Vạn lý trường thành ở Trung Quốc, Awngcovat ở Campuhcia,…). Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả hoạt động đầu tư phát triển.
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Ví dụ: quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy sang tuyển than ở khu vực có mỏ than tùy thuộc rất nhiều vào trữ lượng của mỏ than. Nếu trữ lượng của mỏ ít thì quy mô của nhà máy cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án. Vì thế cần có chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư đúng đắn và đầu tư phải theo quy hoạch, kế hoạch, cần phải có cơ sở khoa học để lựa chọn địa điểm mà doanh nghiệp hoạt động trên đó. Nếu công trình không tiến hành cẩn thận có thể ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế không chỉ một hai năm mà là lâu dài.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư) có nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án được soạn thảo với chất lượng tốt. Đó là quá trình thực hiện đầu tư và quá trình vận hành khai thác. Quá trình thực hiện đầu tư ảnh hưởng tới việc lựa chọn địa điểm, đến giá thành, chi phí xây dựng (giá đất) như chọn những nơi địa hình bằng phẳng sẽ giảm được chi phí san bằng,… Quá trình vận hành khai thác ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn cao nếu địa lý thuận lợi, phải cân đối giữa giá thành xây dựng công trình, chi phí vận chuyển và chi phí cung cấp sản phẩm với khả năng tiêu thụ yếu tố đầu ra. Ngoài ra việc lựa chọn địa điểm còn ảnh hưởng đến dân cư, địa bàn, môi trường sống.
Phân loại đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Để tạo thuận lợi cho quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau:
Trên góc độ quản lý vĩ mô, vốn đầu tư được phân thành bốn khoản mục lớn như sau:
Những chi phí tạo ra tài sản cố định (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định).
Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động) và các chi phí thường xuyên gắn với một chu kỳ hoạt động của tài sản cố định vừa được tạo ra.
Những chi phí chuẩn bị đầu tư chiếm khoảng 0,3 – 15% vốn đầu tư.
Chi phí dự phòng.
Trên góc độ quản lý vi mô tại các cơ sở, những khoản mục trên đây lại được tách thành những khoản chi tiết hơn:
Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm: chi phí ban đầu cho đất đai; chi phí xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trúc hạ tầng; chi phí mua sắm, lắp đặt thiết bị, dụng cụ mua sắm, phương tiện vận chuyển; chi phí khác.
Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm: chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động, chi phí điện nước…; chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hóa bán chịu, vốn bằng tiền; chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án đầu tư; chi phí dự phòng.
Qua phân tích trên ta thấy tăng số lượng vốn là rất quan trọng nhưng thường có giới hạn về nguồn, còn nâng cao hiệu quả đầu tư quan trọng hơn vì vừa tốn ít vốn vừa gần như không có giới hạn.
Để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cơ sở giảm suất đầu tư xuống là nhiệm vụ rất khó khăn. Muốn vậy, cần phải có giải pháp quyết liệt ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư và đặc biệt quan tâm đến khu vực vốn đầu tư nhà nước.
Trước hết ở khâu quy hoạch chúng ta cần phải quy hoạch đồng bộ, phải kết hợp quy hoạch theo ngành và theo vùng lãnh thổ tránh trùng chéo, dàn trải, đồng thời phải có tầm nhìn để tránh việc vay vốn đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động chưa được mấy năm, chưa trả được nợ đã phải di chuyển khỏi khu vực đông dân hoặc không gần nguồn nguyên liệu…
Khắc phục tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện đang ở mức rất lớn mà báo chí, chính phủ, quốc hội đã đề cập rất nhiều. Khắc phục tình trạng khép kín để đảm bảo tính minh bạch, công khai.
Khắc phục tình trạng thi công kéo dài làm cho công trình vừa chậm đi vào hoạt động, vừa lỡ thời cơ, trong khi lãi chồng lên vốn vay.
Giảm thiểu chi phí giải phóng mặt bằng hiện đang quá lớn, ở những công trình còn lớn hơn cả vốn đầu tư cho công trình chính.
Nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư. Đứng trên góc độ vĩ mô, nguồn vốn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trong nước: được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh:
Nguồn vốn nhà nước bao gồm: nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho hoạt