Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, sự giao lưu, luân chuyển các dòng vốn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với đầu tư và phát triển đất nước. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thời kỳ 2006-2010 đó xác định mục tiêu tổng quát là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính hiệu quả và bền vững của sự phát triển, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức nhằm sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 8-10%/năm.
Chính vì lý do đó mà thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đó trở thành một bộ phận trong chính sách mở cửa nhằm góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, từng bước xây dựng đất nước thành một nước Công nghiệp, đúng như chủ trương đó được đề ra tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VIII. Đó là một chủ trương đúng đắn và cần thiết, phù hợp với xu thế chung trên thế giới và thực tiễn phát triển của nước ta.
Là một trong những quốc gia phát triển nhất trên thế giới với tiền lực tài chính hùng hậu, công nghệ hiện đại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Hơn nữa, với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị hợp tác suốt hơn 30 năm trên tinh thần “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, trong nhiều năm qua, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản luôn nằm trong nhóm 5 nước đứng đầu, các dự án đầu tư của Nhật Bản được đánh giá là thành công nhất về phương diện vốn đầu tư thực hiện và hiệu quả triển khai. Do đó, việc thu hút nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam nhằm hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bài viết được trình bày trong hai phần chính:
Thứ nhất là, trình bày về thực trạng FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam.
Thứ hai là, trình bày về những cơ hội, thách thức, và giải pháp để thu hút nguồn vốn FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam.
38 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3512 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Nhật Bản vào Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 3
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG FDI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM 4
1.1. Tình hình kim ngạch FDI 4
1.1.1. Giai đoạn thăm dò 1988-1993 5
1.1.2. Giai đoạn bùng nổ 1994-1997 6
1.1.3. Giai đoạn suy thoái 1998-2002 8
1.1.4. Giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ năm 2003 đến nay: 10
1.1.5. Xét trong cơ cấu dòng FDI của Nhật Bản vào châu Á 11
1.2. Cơ cấu FDI 13
1.2.1. Cơ cấu đầu tư theo ngành 13
1.2.2. Cơ cấu theo địa phương 16
1.2.3. Cơ cấu theo hình thức đầu tư 20
1.3. Qui mô dự án và hiệu quả đầu tư FDI 22
1.3.1. Qui mô dự án 22
1.3.2. Hiệu quả đầu tư FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 23
CHƯƠNG 2:CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM 24
2.1. Cơ hội, thách thức cho Việt Nam 24
2.1.1. Cơ hội 24
2.1.1.1. Môi trường đầu tư Việt Nam có những lợi thế nhất định 24
2.1.1.2. Môi trường đầu tư Việt Nam có những cải thiện đáng kể 25
2.1.2. Thách thức 26
2.1.2.1. Những tồn tại trong môi trường đầu tư Việt Nam 26
2.2.2.2. Cạnh tranh từ các quốc gia khác ngày càng gay gắt 28
2.2.2.3 Thảm họa động đất và sóng thần ở Nhật Bản 28
2.2. Giải pháp cho Việt Nam 29
2.2.1. Giải pháp tổng thể 29
2.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI 29
2.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI 30
2.2.1.3. Cải cách các thủ tục hành chính 32
2.2.1.4. Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư 32
2.2.1.5. Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI 35
2.2.2 Một số giải pháp cụ thể đối với Nhật Bản 36
KÕt luËn 38
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, sự giao lưu, luân chuyển các dòng vốn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với đầu tư và phát triển đất nước. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thời kỳ 2006-2010 đó xác định mục tiêu tổng quát là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính hiệu quả và bền vững của sự phát triển, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức nhằm sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 8-10%/năm.
Chính vì lý do đó mà thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đó trở thành một bộ phận trong chính sách mở cửa nhằm góp phần đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, từng bước xây dựng đất nước thành một nước Công nghiệp, đúng như chủ trương đó được đề ra tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VIII. Đó là một chủ trương đúng đắn và cần thiết, phù hợp với xu thế chung trên thế giới và thực tiễn phát triển của nước ta.
Là một trong những quốc gia phát triển nhất trên thế giới với tiền lực tài chính hùng hậu, công nghệ hiện đại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Hơn nữa, với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị hợp tác suốt hơn 30 năm trên tinh thần “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, trong nhiều năm qua, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản luôn nằm trong nhóm 5 nước đứng đầu, các dự án đầu tư của Nhật Bản được đánh giá là thành công nhất về phương diện vốn đầu tư thực hiện và hiệu quả triển khai. Do đó, việc thu hút nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam nhằm hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bài viết được trình bày trong hai phần chính:
Thứ nhất là, trình bày về thực trạng FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam.
Thứ hai là, trình bày về những cơ hội, thách thức, và giải pháp để thu hút nguồn vốn FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam.
__________*.*__________
CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG FDI TỪ NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM
1.1. Tình hình kim ngạch FDI
(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và đầu tư)
Từ năm 1986, Việt Nam đã chính thức bước vào công cuộc đổi mới mở cửa nền kinh tế, thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn vốn bên ngoài để phát triển đất nước. Và đặc biệt khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào ngày 29/12/1987 quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI nói chung và vốn FDI của Nhật Bản nói riêng tại Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực. Tình hình vốn FDI của Nhật vào Việt Nam từ những ngày đầu cho đến nay có thể được chia ra làm 4 giai đoạn: giai đoạn thăm dò 1988-1993; giai đoạn bùng nổ 1994-1997; giai đoạn suy thoái 1998-2002; giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ 2003 đến nay.
1.1.1. Giai đoạn thăm dò 1988-1993
Đây được coi là giai đoạn mở đầu khi các nhà đầu tư Nhật Bản mới chỉ dè dặt bước vào thị trường Việt Nam. Trên thực tế, hơn 1 năm kể từ năm 1988, dòng vốn FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam mới có khoảng gần 1 triệu USD, mở đầu là dự án đầu tư của công ty Kansai Kyodo trong lĩnh vực chế tạo thiết bị cảng ở Hải Phòng năm 1989, tiếp đến là dự án xuất khẩu may mặc của công ty Hikosen Kara vào tháng 3 năm 1990. Theo Cục đầu tư nước ngoài (Cục ĐTNN), tính chung cho cả 3 năm 1989-1990, tổng vốn đầu tư đăng kí chỉ đạt gần 27 triệu USD với trung bình 6 dự án mỗi năm. Năm 1992 là năm chứng kiến dòng vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam mạnh mẽ nhất trong cả giai đoạn, với 10 dự án và tổng số vốn đăng kí lên tới gần 106 triệu USD, nhưng con số này cũng giảm mạnh ngay trong năm sau đó, chỉ còn bằng 75% năm trước.
Thời gian này, mặc dù Nhật Bản là một trong những quốc gia tiên phong quan tâm đổ vốn vào Việt Nam nhưng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam khởi đầu thấp, biến động chậm và chưa chiếm được vai trò quan trọng trong tổng vốn FDI vào Việt Nam. Thống kê của Cục ĐTNN cho thấy tổng vốn FDI của Nhật Bản trong cả thời kì chỉ chiếm 3,1% tổng nguồn vốn này vào Việt Nam.
Phần lớn giai đoạn này nằm trong thời kì lạnh nhạt quan hệ ngoại giao giữa hai nước kéo dài từ năm 1979 đến năm 1991. Năm 1990, tuy Việt Nam đã ban hành các ưu đãi đầu tư thông thoáng hơn qua sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài, nhưng tình hình cũng không mấy cải thiện. Năm 1992 đánh dấu một mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam-Nhật Bản do việc giải quyết vấn đề Campuchia và quá trình đổi mới của Việt Nam được gia tăng trên tất cả các lĩnh vực, chấm dứt thời kì lạnh nhạt, mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ bang giao giữa hai nước. Việt Nam tiếp tục áp dụng những ưu đãi đầu tư hấp dẫn hơn để thu hút vốn FDI tuy nhiên, về cơ bản, khuôn khổ pháp lý vẫn chưa được hoàn thiện nên chưa tạo được lòng tin cho các nhà đầu tư.
Nhìn chung, cũng như các dòng FDI vào Việt Nam khác, mức đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam hàng năm trong giai đoạn này không ổn định và chưa đáng kể. Điều này cũng dễ hiểu bởi khung pháp luật về FDI ở Việt Nam mới được hình thành lại liên tục bị thay đổi nên các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư Nhật Bản với bản tính thận trọng, còn cân nhắc khi chọn Việt Nam là nơi đầu tư so với các nước trong khu vực hay trên thế giới.
1.1.2. Giai đoạn bùng nổ 1994-1997
Đây là thời kì FDI của Nhật Bản vào Việt Nam nở rộ. Nhìn chung, trong giai đoạn này, mức vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam qua các năm đều đạt con số lớn.
Theo số liệu của Cục ĐTNN, ngay từ năm 1994, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đã có dấu hiệu tăng trưởng mạnh với 35 dự án đầu tư và 347 triệu USD tổng vốn đăng kí, tăng hơn 3 lần so với năm 1992, năm được coi là đỉnh cao của FDI Nhật Bản trong giai đoạn trước. Năm 1995, FDI Nhật Bản vào Việt Nam tiếp tục tăng vọt, đạt trên 1,2 tỉ USD vốn đăng kí, cao nhất kể từ thời kì đầu cho tới hết 10 năm sau đó, với 65 dự án được cấp phép đầu tư. Trong hai năm cuối của thời kì, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tuy có giảm sút hơn nhưng vẫn đạt được những con số đáng nể. Năm 1996, tổng vốn đăng kí đạt 788,9 triệu USD với 72 dự án được cấp phép, những con số tương ứng năm 1997 là 606 triệu USD và 54 dự án được cấp phép.
Tính cả giai đoạn, Việt Nam đã thu hút được gần 3 tỉ USD vốn FDI đăng kí của Nhật Bản và cấp phép cho 226 dự án. Chỉ trong vòng 4 năm của thời kì bùng nổ, tổng vốn đăng kí đã tăng gấp 15 lần so với 5 năm của giai đoạn trước và số dự án tăng gấp 5 lần.
Những con số đáng kể trên đã nâng tầm Nhật Bản dần trở thành một trong những nhà đầu tư quan trọng hàng đầu vào Việt Nam. Năm 1995, Nhật Bản là nhà đầu tư đứng thứ 3 ở Việt Nam, sau Đài Loan và Hồng Kông. Năm 1997, tuy giảm về con số tuyệt đối nhưng Nhật Bản vẫn đứng thứ 2 về số dự án (sau Đài Loan với 64 dự án) và đứng thứ 2 về tổng vốn đầu tư (sau Hồng Kông với 695 triệu USD). Thống kê của Cục ĐTNN cho thấy tỉ trọng vốn FDI của Nhật Bản trong tổng nguồn vốn này vào Việt Nam lên tới 10,76%. Những tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư của Chính phủ Nhật Bản như Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro), Văn phòng hợp tác quốc tế Nhật Bản (Jica) lần lượt khai trương các văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Phó tổng vụ trưởng Vụ chính sách thương mại, bộ kinh tế thương mại Nhật Bản, ông Yoshihiko Sumi cho biết: “Thời gian này, người Nhật Bản coi Việt Nam là một hiện tượng”. Sự bùng nổ này một phần là nhờ những chuyển biến tích cực của tình hình quốc tế, trong đó đáng chú ý là Mỹ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam (2/1994) và sự gia tăng của xu hướng đồng Yên lên giá buộc các công ty Nhật Bản phải xúc tiến đi tìm một thị trường khác với chi phí sản xuất rẻ hơn để đầu tư. Đó còn là nhờ những thành quả bước đầu trong công cuộc chuyển mình của Việt Nam từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhằm nỗ lực cải thiện hình ảnh của mình trong mắt các nhà đầu tư. Đồng thời, sự kiện Việt Nam gia nhập ASEAN vào ngày 28/7/1995 sau khi bình thường hoá quan hệ với Mĩ đã làm dấy lên kì vọng của các nhà đầu tư Nhật Bản vào một thị trường Việt Nam tiềm năng, một môi trường đầu tư ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực trong tương lai. Những giảm sút trong hai năm cuối của thời kì nằm trong xu hướng chung của các dòng FDI vào Việt Nam trước phản ứng của nhà đầu tư với Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi lần thứ ba theo hướng giảm bớt khá nhiều ưu đãi đầu tư. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn tỏ ra là một trong những quốc gia hàng đầu quan tâm đến thị trường Việt Nam khi duy trì được vị thế của mình so với các nhà đầu tư khác.
Sự bùng nổ FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm này nằm trong giai đoạn bùng nổ FDI nói chung vào Việt Nam từ năm 1994 đến năm 1998. Điều này cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản rất nhạy bén với xu hướng của thời kì. Nhật Bản đã vươn lên trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam.
1.1.3. Giai đoạn suy thoái 1998-2002
Trong giai đoạn này, FDI của Nhật Bản vào Việt Nam suy giảm rõ rệt cả về tổng vốn đăng kí và số dự án đầu tư, lâm vào trạng thái trì trệ kéo dài.
FDI của Nhật Bản vào Việt Nam năm 1998 chỉ còn 19 dự án được cấp phép với 177,5 triệu USD vốn đăng kí, chỉ còn bằng 1/4 so với năm 1997 và tiếp tục giảm mạnh trong các năm tiếp theo. Năm 1999, dòng vốn này của Nhật Bản vào Việt Nam trở về mức khởi điểm, chỉ đạt 42 triệu USD với 14 dự án, đẩy các nhà đầu tư Nhật Bản về vị trí thứ 9 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam. Các con số trong những năm tiếp theo mặc dù có xu hướng tăng hơn nhưng cũng ở mức thấp, đạt 140 triệu USD, 223 triệu USD, 163 triệu USD tương ứng vào các năm 2000, năm 2001 và năm 2002. Các nhà đầu tư Nhật Bản mất dần vị trí chủ đạo. Theo Cục ĐTNN, tổng FDI của Nhật Bản cả giai đoạn chỉ còn chiếm 3,9% tổng dòng vốn này vào Việt Nam.
Một điểm đáng chú ý trong ba năm cuối thời kì là mặc dù tổng vốn đăng kí ở mức thấp nhưng con số dự án đầu tư lại tăng khá nhanh. Số dự án đầu tư năm 2000, năm 2001 tăng gấp đôi, gấp 4 lần so với năm 1999, lên 26 và 48 dự án. Đặc biệt, năm 2002, trong khi tổng vốn đăng kí chỉ còn 163 triệu USD, bằng 73% so với năm 2001 thì số dự án lại tăng 22,9%, lên tới 59 dự án. Điều này chứng tỏ qui mô dự án trong ba năm cuối thời kì đang thu hẹp lại.
Đây là thời kì hậu khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực châu Á 1997, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái với hàng loạt các công ty lớn phá sản và các nhà đầu tư rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính. Thêm vào đó, sự giảm giá của đồng Yên, việc cải tổ, cơ cấu lại các doanh nghiệp của Nhật Bản cũng như việc chính phủ Nhật tiến hành điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này làm cho dòng FDI của Nhật Bản tới hầu hết các nước suy giảm nghiêm trọng, trong đó có cả Việt Nam.
Tuy nhiên, đây không phải là nguyên nhân chính làm hoạt động FDI của Nhật Bản ở Việt Nam giảm sút mà còn do những nhận định của các nhà đầu tư Nhật Bản về điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam và môi trường đầu tư kém hấp dẫn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo quan điểm của nhiều chuyên gia kinh tế, cuộc khủng hoảng này tuy có tác động đến Việt Nam nhưng cũng tạo ra thời cơ trong việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi các nước khác trong khu vực đang phải đối phó với những biến động kinh tế nhưng luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1996 lại không tạo điều kiện để khai thác được những lợi thế này. Do đó, Việt Nam không đón bắt được cơ hội thu hút dòng vốn FDI từ Nhật Bản. Mặc dù trong những năm tiếp theo, Việt Nam đã có cố gắng để cải thiện môi trường đầu tư, nhất là vấn đề cấp phép và mở rộng các chế độ ưu đãi đầu tư thông thoáng hơn, thể hiện qua việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung tháng 7/2000 nhưng các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn chưa thực sự an tâm bởi các chính sách khi đó vẫn còn bất cập, thiếu nhất quán. Năm 2002, một số vụ việc liên quan đến cấp hạn ngạch nhập khẩu linh kiện ô tô, xe máy ở Việt Nam nảy sinh làm cho vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ mới hơi hướng hồi phục lại giảm mạnh.
Trong những năm cuối của giai đoạn này, sự suy giảm FDI từ Nhật Bản chỉ xảy ra đối với Việt Nam. Trong những năm này, mặc dù FDI của Nhật Bản vào các nước khác sau khi vượt qua năm 1999 đã tương đối hồi phục và tăng nhanh thì dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tuy có tăng nhưng vẫn chỉ dao động ở con số trên dưới 200 triệu USD. Năm 2002, đầu tư của Nhật Bản vào các nước ASEAN duy trì ở mức cao, đặc biệt vào Trung Quốc thì nở rộ, đạt 2,6 tỉ USD, gấp hơn 7 lần so với 360 triệu USD vào năm 1999.
Nhìn chung, những diễn biến về FDI của Nhật Bản trong thời kì này cũng giống như xu hướng của dòng FDI nói chung vào Việt Nam, đều có biểu hiện chững lại hay giảm sút. Điều này tiếp tục cho thấy sự nhạy bén của các nhà đầu tư Nhật Bản trong nắm bắt tình hình để giữ an toàn cho nguồn vốn của họ, đặc biệt là những quan tâm sâu sắc về môi trường đầu tư của nước chủ nhà trong quá trình tìm hiểu và tiến hành đầu tư.
1.1.4. Giai đoạn phục hồi và phát triển mạnh mẽ từ năm 2003 đến nay:
Đây được coi là giai đoạn các nhà đầu tư Nhật Bản chú ý trở lại thị trường Việt Nam. Dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từng bước hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ, đạt được những con số đáng kể.
Năm 2003, tổng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tăng gần gấp đôi so với mức 163 triệu USD vào năm 2002, đạt 324 triệu USD. Đến năm 2004, con số này đã tăng lên gấp hơn 2,5 lần so với năm 2003, đạt 890 triệu USD và gần 4 lần so với năm 2002. Năm 2005, vốn đầu tư của Nhật Bản tiếp tục tăng lên 960 triệu USD với 119 dự án mới. Trong năm này, Nhật Bản giành lại vị trí thứ 3 trong số các nhà đầu tư vào Việt Nam, chỉ sau Hàn Quốc và Hồng Kông. Cùng với sự sôi nổi của hoạt động FDI cả nước, dòng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam năm 2006 đạt kỉ lục: 1,5 tỉ USD vốn đăng kí với 160 dự án được cấp phép, tăng 57% về vốn và 34,4% về số dự án so với năm 2005.
Vào năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, Nhật Bản chỉ đứng thứ 9 với tổng vốn đăng ký là 372,7 triệu USD chiếm 1,7% tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam, nhưng tính đến hết năm 2010, Nhật Bản có 1397 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký 20,8 tỷ USD, đứng thứ 3 trong 91 Quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Tính từ đầu năm 2011 đến hết tháng 3 năm 2011, đã có 22 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 1,08 tỷ USD, chiếm 46,74% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; trong tháng 3/2011 Hồng Kông đã vươn lên đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 331,54 triệu USD, chiếm 13,98% tổng vốn đầu tư; BritishVirginIslands đứng thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 277,37 triệu USD, chiếm 11,69% tổng vốn đầu tư; Tiếp theo là Hàn Quốc đứng ở vị trí thứ 4 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 193,29 triệu USD, chiếm 8,15% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản đứng thứ 5 với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 131 triệu USD, chiếm 5,5% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Nguyên nhân của quá trình phục hồi nhanh chóng này trước hết phải kể đến sự quan tâm của các nhà đầu tư Nhật Bản tới Việt Nam như một địa điểm tiềm năng cho chiến lược “Trung Quốc +1”, chiến lược tìm một thị trường đầu tư để phân tán rủi ro khỏi Trung Quốc. Sự quan tâm này đã thúc đẩy những nỗ lực hợp tác của Chính phủ và các doanh nghiệp hai nước, thể hiện cụ thể trong việc kí kết Hiệp định về tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư vào 14/11/2003 cũng như việc thực thi Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản từ năm 2003. Tiếp đến, việc thực hiện có hiệu quả Sáng kiến chung đã tăng đáng kể tính “hấp dẫn” của môi trường đầu tư Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản. Thêm vào đó, từ 1/7/2006, Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp mới được đưa vào thực hiện, đánh dấu bước tiến quan trọng trong lộ trình hội nhập kinh tế nói chung và đầu tư nói riêng trên lĩnh vực lập pháp, xoá bỏ việc phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo tâm lý bình đẳng hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, việc phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố thẩm định và cấp phép, quản lý nhà nước các doanh nghiệp FDI đã hình thành phong trào thi đua cải thiện thủ tục và môi trường đầu tư giữa các địa phương.
1.1.5. Xét trong cơ cấu dòng FDI của Nhật Bản vào châu Á
Rõ ràng, trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, FDI của Nhật Bản là nguồn ngoại lực dồi dào và quan trọng. Tuy nhiên, tầm quan trọng của dòng vốn này trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như hiệu quả thu hút hay mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam như thế nào thì không thể chỉ căn cứ vào tỉ trọng trong cơ cấu FDI vào Việt Nam để khẳng định. Do đó, để có thể đánh giá rõ hơn thực chất kim ngạch FDI Nhật Bản vào Việt Nam cần phải xem xét trong mối quan hệ với dòng FDI ra của Nhật Bản.
(Nguồn: Thống kê của Jetro, 2007,
Xem xét cơ cấu dòng vốn FDI Nhật Bản vào châu Á, dòng vốn đầu tư vào Việt Nam trong tất cả các giai đoạn đều chiếm tỉ trọng không lớn. Tỉ trọng này trong giai đoạn thăm dò chỉ đạt 0,17%; thậm chí cả trong giai đoạn bùng nổ 1994-1997 cũng chỉ lên tới 2,19%. Con số này trong thời kì suy thoái giảm xuống chỉ còn 0,97% và trong giai đoạn hiện nay là 2,48%. Như vậy, chưa có thời kì nào đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đạt tới 3% trong tổng dòng FDI ra của Nhật Bản. Những con số trên nếu so với mức tăng FDI của Nhật Bản vào các quốc gia và vùng lãnh thổ khác thì còn rất khiêm tốn, đặc biệt khi tính đến khả năng và tiềm lực vốn của các công ty Nhật Bản. Chẳng hạn, FDI của Nhật Bản vào Trung Quốc từ năm 1994 luôn chiếm tỉ trọng trên dưới 20% và từ 2003 đến nay là 53,47% trong tổng FDI Nhật Bản vào châu Á. FDI Nhật Bản vào Việt Nam cũng thua xa dòng vốn này vào Thái Lan và Inđônêxia, trên 15%; vào Malayxia, gần 10%; vào Singapo, gần 8%. Có thể nói, Việt Nam vẫn chưa thu hút được nhiều tiềm năng của các nhà đầu tư Nhật Bản.
Tuy nhiên, vào năm 2006, tình hình có dấu hiệu thay đổi. Trong khi đầu tư vào các nước trong khu vực đang có xu hướng giảm nhẹ hay chững lại thì đầu tư vào Việt Nam lại tiếp tục tăng 56% so với năm 2005, đạt kỉ lục 1,5 tỉ USD. Chẳng hạn, đầu tư của Nhật B