Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

Như chúng ta đã biết, tăng trưởng kinh tế là một nhân tố quan trọng quyết định tới sự phát triển hay tụt hậu của một nền kinh tế, từ đó nó quyết định mức sống của người dân một nước. Một đất nước có tốc độ tăng trưởng cao tức là năng suất lao động của người dân nước đó cao, do đó mà mức sống của họ cũng cao hơn. Mà vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng trong mọi quốc gia. Đối với VN để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần phải có một khối lượng vốn rất lớn.Vì thế trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích luỹ còn thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ sung cho tổng vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó phải kể đến vốn đầu tư nước ngoài (FDI). FDI có vai trò hết sức quan trọng, nó là nguồn vốn bổ sung vốn cho đầu tư, là một cách để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhận thức đúng vị trí vai trò to lớn của FDI, chính phủ VN đã cho ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào VN, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào VN. VN coi vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả FDI trong tổng thể chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu nhất. Với mục đích tìm hiểu về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào VN, nên em đã chọn vấn đề “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” nhằm tìm hiểu rõ hơn chiến lược phát triển của Việt Nam trong các năm gần đây và trong những năm tiếp theo.Qua đó chúng ta sẽ hiểu thêm được nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang ở trong tình trạng như thế nào.

doc19 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2237 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
L ời n ói đ ầu Như chúng ta đã biết, tăng trưởng kinh tế là một nhân tố quan trọng quyết định tới sự phát triển hay tụt hậu của một nền kinh tế, từ đó nó quyết định mức sống của người dân một nước. Một đất nước có tốc độ tăng trưởng cao tức là năng suất lao động của người dân nước đó cao, do đó mà mức sống của họ cũng cao hơn. Mà vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng trong mọi quốc gia. Đối với VN để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần phải có một khối lượng vốn rất lớn.Vì thế trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả năng tích luỹ còn thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để bổ sung cho tổng vốn đầu tư phát triển có ý nghĩa rất quan trọng, trong đó phải kể đến vốn đầu tư nước ngoài (FDI). FDI có vai trò hết sức quan trọng, nó là nguồn vốn bổ sung vốn cho đầu tư, là một cách để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu ngân sách và thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhận thức đúng vị trí vai trò to lớn của FDI, chính phủ VN đã cho ban hành chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào VN, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào VN. VN coi vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả FDI trong tổng thể chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là một trong những nhiệm vụ chiến lược trọng yếu nhất. Với mục đích tìm hiểu về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào VN, nên em đã chọn vấn đề “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” nhằm tìm hiểu rõ hơn chiến lược phát triển của Việt Nam trong các năm gần đây và trong những năm tiếp theo.Qua đó chúng ta sẽ hiểu thêm được nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang ở trong tình trạng như thế nào. MỤC LỤC Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam Trang Phần I. Tổng quan về FDI……………………………………………… Định nghĩa…………………………………………………… Các hình thức FDI…………………………………………… Lợi ích của thu hút FDI………………………………………. Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài………… Phần II. Thực trạng đầu tư nước ngòai vào Việt Nam từ năm 1998-2008 2.1 Những giai đoạn chính trong thu hút vốn đầu tư nước ngòai vào Việt Nam…………………………………………………… 2.2 Những nét mới về địa bàn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam…………………………………………………… Phần III. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt nam:Tồn tại và kiến nghị………………………………………………………………... 3.1 Nhận xét…………………………………………………… 3.2 Một số tồn tại và kiến nghị trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Viêt Nam……………………………………….. Phần IV. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngòai vào Việt Nam-Thành tựu và bài học 4.1 Tầm quan trọng của thu hút FDI vào Việt Nam………….. 4.2 Thành tựu và bài học……………………………………... Tài liệu tham khảo……………………………………………………  3 3 4 5 7 10 11 12 14 15 20   Phần I Tổng quan về FDI Định nghĩa Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này Tổ chức Thương mại Thế giới(WTO) đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". 1.2 Các hình thức FDI A.Phân theo bản chất đầu tư 1.Đầu tư phương tiện hoạt động Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào. 2.Mua lại và sáp nhập Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối lượng đầu tư vào. B.Phân theo tính chất dòng vốn 1.Vốn chứng khoán Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các quyết định quản lý của công ty. 2.Vốn tái đầu tư Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh trong quá khứ để đầu tư thêm. 3.Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau. C.Phân theo động cơ của nhà đầu tư 1.Vốn tìm kiếm tài nguyên Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và rồi rào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng rồi rào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. 2.Vốn tìm kiếm hiệu quả Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ, thuế suất ưu đãi, v.v... 3.Vốn tìm kiếm thị trường Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu. 1.3 Lợi ích của thu hút FDI 1.Bổ sung cho nguồn vốn trong nước Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần nhiều vốn hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ muốn có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn FDI. 2.Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước. 3.Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nước thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu. 4.Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 5.Nguồn thu ngân sách lớn Đối với nhiều nước đang phát triển, hoặc đối với nhiều địa phương, thuế do các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp là nguồn thu ngân sách quan trọng. Chẳng hạn, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006. 1.4 Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài 1.Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn. Còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi nhuận. 2.Chu kỳ sản phẩm Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường nội địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hoà, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tuợng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI. Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn. 3.Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning (1981), Rugman A. A. (1987) và một số người khác cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. 4.Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng du thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu. 5.Khai thác chuyên gia và công nghệ Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ. Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electroincs, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy. 6.Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bảnvào thập niên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự. Phần II Thực trạng đầu tư nước ngòai vào Việt Nam từ năm 1998-2008 Những giai đoạn chính trong thu hút vốn đầu tư nước ngòai vào Việt Nam Trong hơn 17 năm qua, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã trải qua 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất từ năm 1988 đã tăng liên tục và đạt đỉnh cao nhất vào năm 1996; trong 9 năm đó đã có 1.998 dự án với số vốn đăng ký đạt 30.395 triệu USD, chiếm 48,2% tổng vốn đăng ký trong hơn 17 năm qua, bình quân 1 năm đạt 3.377,2 triệu USD. Giai đoạn thứ hai từ năm 1997- 2002, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã gần như liên tục bị sút giảm; trong 6 năm này đã có 2.695 dự án được cấp phép mới, với tổng vốn đăng ký mới và bổ sung đạt 10.932,3 triệu USD, bình quân 1 năm đạt 1.822,1 triệu USD. Giai đoạn thứ ba tính từ năm 2003 đến nay, số vốn đăng ký mới và bổ sung đã liên tục tăng lên; trong giai đoạn này đã có 1.890 dự án được cấp phép mới, với tổng vốn đăng ký mới và bổ sung đạt 10.567,7 triệu USD, bằng 34,8% trong 9 năm đầu và đạt xấp xỉ bằng tổng vốn trong 6 năm từ 1997-2002, bình quân 1 năm đạt hơn 4 tỷ USD, cao nhất trong 3 giai đoạn. Sự "khởi sắc" trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tính từ cuối năm 2003 đến nay, đặc biệt trong 7 tháng đầu năm được thể hiện ở nhiều mặt: - Tổng số vốn đăng ký mới trong 7 tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn số cả năm của 8 năm (1988, 1989, 1990, 1991, 1992, 1999, 2000, 2002). - Sự tăng lên của vốn đầu tư đạt được cả ở 2 kênh. Tính từ đầu năm đến 20/7 đã có 419 dự án mới được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 2.100 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 16,7% về số dự án và tăng tới 118,2% về số vốn đăng ký (7 tháng đầu năm 2004 có 359 dự án với số vốn đăng ký 962,5 triệu USD). Cũng trong thời gian này đã có 277 lượt dự án đang hoạt động bổ sung vốn với tổng số vốn đăng ký tăng thêm 1,12 tỷ USD, tăng 40,6% về số lượt dự án và tăng 13,1% về số vốn đăng ký bổ sung. Nếu tính cả số vốn của những dự án mới được cấp phép và số vốn bổ sung của những dự án đang hoạt động thì tổng số vốn đăng ký mới trong 7 tháng đầu năm 2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm trước. - Bên cạnh những dự án có quy mô như những năm trước đã xuất hiện những dự án mới có quy mô vốn khá lớn, trong đó có dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh điện thoại di động CDMA với tổng số vốn đăng ký lên đến 665 triệu USD; nhiều dự án đang hoạt động xin tăng vốn lên tới 50-70 triệu USD. - Cơ cấu đầu tư theo nhóm ngành đã có sự thay đổi theo hướng tích cực. Nếu trong thời kỳ 1988-2004, tỷ trọng vốn đăng ký đầu tư vào nhóm ngành công nghiệp xây dựng lên đến 65,3%, vào nhóm ngành dịch vụ chỉ có 28,7% thì trong 7 tháng đầu năm nay, các con số tương ứng đã có sự thay đổi đáng kể là 49,1% và 47,9%. Đây là tín hiệu để có thể gia tăng tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP (đã bị giảm liên tục trong thời kỳ 1995-2003, từ 44,06% xuống còn 37,99% đến năm 2004 mới chặn lại được và chỉ tăng nhẹ lên mức 38,15%). - Theo địa bàn, trong 7 tháng đầu năm 2005, số vốn đăng ký của các dự án mới được cấp giấy phép đầu tư vào 37 tỉnh thành phố. Trong 37 địa bàn đó có 13 địa bàn đạt trên 15 triệu USD. 10 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam trong năm 2006 là một con số kỷ lục trong suốt gần 2 thập kỷ qua, kể tư khi thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Hơn cả mong đợi, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2006 không chỉ là sự hồi phục mạnh mẽ mà thực sự đã có bước đột phá ngoạn mục.  Trong số 10 tỷ USD này, có tới gần 2,4 tỷ USD vốn tăng (chiếm gần 1/4 tổng vốn) từ các dự án đã hoạt động tại Việt Nam, trong đó nhiều dự án tăng vốn lần thứ hai. Điều này minh chứng thuyết phục cho nhận xét rằng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không phải là một "làn sóng thời thượng". Các doanh nghiệp nước ngoài đã đến Việt Nam và nhận thấy những cơ hội và họ đã quyết định tăng quy mô vốn tại thị trường này. Lý giải về sự đột phá trong đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ông Dominic Scriven, Giám đốc Quĩ đầu tư Dragon Capital cho rằng Việt Nam đã hội tụ đủ 3 điều kiện cơ bản để các nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư là môi trường đầu tư ổn định, có tiềm năng và có tính dài hạn. Còn ông Cục trưởng Cục đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Phan Hữu Thắng đã tổng kết nên năm yếu tố tạo đà cho cuộc bứt phá năm nay là việc Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); tình hình chính trị ổn định và tốc độ tăng trưởng nhanh; môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện; hệ thống kết cấu hạ tầng bước đầu cải thiện; và dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng đổ vào các nước đang phát triển. Trong năm 2006, các nhà đầu tư đến từ Hàn Quốc đã vươn lên vị trí dẫn đầu về đầu tư tại Việt Nam với 203 dự án, tổng số tiền là 2,4 tỷ USD. Nhiều tập đoàn lớn như Posco, Samsung, Lotte, Kumho Asiana đã bắt đầu triển khai nhiều dự án đầu tư tại đây.  Các nhà đầu tư Nhật Bản cũng đánh giá Việt Nam là một thị trường đầy triển vọng. Theo kết quả một cuộc thăm dò được Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) công bố mới đây, Việt Nam đã lần đầu tiên vượt qua Thái Lan, đứng ở vị trí thứ ba trong danh sách 10 nước có triển vọng nhất đối với các doanh nghiệp Nhật Bản, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Một điểm sáng trong đầu tư nước ngoài trong năm 2006 là : ngoài lĩnh vực công nghiệp vẫn dẫn đầu về nguồn vốn đầu tư, những ngành thuộc lĩnh vực công nghệ cao cũng đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể nhất là dự án 1 tỷ USD của tập đoàn Intel vào lĩnh vực sản xuất chíp điện tử. Các chuyên gia về đầu tư nhận định, dự án của Intel sẽ là điểm mở đầu để kéo theo hàng loạt những dự án vệ tinh khác xoay quanh. Intel cũng là một tâm điểm để phát triển khu công nghệ cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong tháng 11/2007, cả nước có 139 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 3.647 triệu USD, đưa tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cấp trong 11 tháng đầu năm 2007 lên 1.283 dự án với tổng vốn 13,4 tỷ USD. Như vậy, dòng vốn FDI đã tăng 35,2% về số dự án và 67,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. Cũng trong tháng 11, các doanh nghiệp có vốn FDI tiếp tục góp vốn đầu tư thực hiện ước đạt 390 triệu USD, đưa tổng vốn thực hiện trong 11 tháng đầu năm 2007 đạt 4,1 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước, bằng 95,3% kế hoạch năm đề ra (4,5 tỷ USD). Tính chung cấp mới và tăng vốn trong 11 tháng đầu năm 2007, cả nước thu hút được 15,03 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 38,4% so với cùng kỳ năm trước, vượt 15% kế hoạch dự kiến năm (13 tỷ USD). Hàn Quốc tiếp tục giữ vị trí đứng đầu với số vốn đăng ký 3,68 tỷ USD. * Ngày 27-11-2007, Bộ Công thương cho biết, đến hết tháng 11, xuất khẩu hàng hóa của cả nước đã đạt trên 43,6 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ. Dự kiến cả năm sẽ vượt mục tiêu 46,7 tỷ USD đề ra. Đến cuối tháng 11, tất cả các sản phẩm xuất khẩu chủ lực thuộc “câu lạc bộ 1 tỷ USD” đều đã về đích: thủy sản đạt 3,45 tỷ USD; gạo đạt 1,45 tỷ USD; cao su 1,24 tỷ USD; dầu thô: 7,55 tỷ USD; dệt may: 7,05 tỷ USD; giày dép 3,53 tỷ USD; điện tử và linh kiện máy tính đạt 1,96 tỷ USD; sản phẩm gỗ 2,15 tỷ USD. Đặc biệt, mặt hàng cà phê do gặp thuận lợi về giá nên trong vòng 11 tháng qua đã đạt tới 1,6 tỷ USD và trở thành mặt hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất với mức tăng 72%. Bên cạnh đó, các mặt hàng có mức tăng cao hơn mục tiêu của năm 2007 là: hạt tiêu đạt 249 triệu USD so với dự kiến 192 triệ
Luận văn liên quan