Nghe nói những người trong nhóm trăng mới đang khoe bây giờ báo họ tiêu thụ khá lắm rồi. Có lẽ thật như thế. Tôi là người rất ít giao thiệp, mà cũng thấy trong tay hai bạn thanh niên, tập hai gồm số 6 và 7 đóng chung. Nhân tiện giở xem, thấy những bài tranh đấu cho “tự do ngôn luận” [1] và tiểu thuyết chiếm phần lớn. Gần cuối có bài “Bàn về cách dịch cứng nhắc của ông Lỗ Tấn” của ông Lương Thực Thu. Ông ta cho rằng dịch như thế “gần như là dịch chết” mà “kiểu dịch chết thì nhất định không thể lâu dài được” [2] Rôì ông ta trích dẫn ba đoạn văn tôi dịch và cả đoạn trong lời nói sau để cuốn sách Văn nghệ phê bình [3] : "Nhưng vì năng lực người dịch có hạn, vì văn tự Trung Quốc vốn có nhiều khuyết điểm, cho nên dich xong, xem lại, thấy có nhiều chỗ trúc trắc, thậm chí rất khó hiểu. Nếu phân tích từng câu, lại thấy mất hẳn ngữ khí lúc đầu. Đối với tôi trừ cách dịch cứng nhắc như thế, chỉ có một con đường là bó tay chịu. Điều hy vọng duy nhất còn lại là bạn đọc sẽ cố gắng chịu khó xem mà thôi”. Những câu đó, ông ta thêm vào những vòng khuyên ở bên cạnh rất cẩn thận, và cạnh ba chữ “dịch cứng nhắc” thì khuyên một dãy [4] thế rồi phê bình một cách “nghiêm chỉnh” nói: “Chúng tôi đã “chịu khó cố gắng xem rồi” nhưng chẳng được gì hết. “Dịch cứng nhắc” và “dịch chết” có gì là phân biệt đâu?”
13 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1898 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Dịch cứng nhắc và tính giai cấp của văn học - Lỗ Tấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lỗ Tấn
“Dịch cứng nhắc” và “tính giai cấp của văn học”
Trương Chính dịch
1. Nghe nói những người trong nhóm trăng mới đang khoe bây giờ báo họ tiêu thụ khá lắm rồi. Có lẽ thật như thế. Tôi là người rất ít giao thiệp, mà cũng thấy trong tay hai bạn thanh niên, tập hai gồm số 6 và 7 đóng chung. Nhân tiện giở xem, thấy những bài tranh đấu cho “tự do ngôn luận” [1] và tiểu thuyết chiếm phần lớn. Gần cuối có bài “Bàn về cách dịch cứng nhắc của ông Lỗ Tấn” của ông Lương Thực Thu. Ông ta cho rằng dịch như thế “gần như là dịch chết” mà “kiểu dịch chết thì nhất định không thể lâu dài được” [2] Rôì ông ta trích dẫn ba đoạn văn tôi dịch và cả đoạn trong lời nói sau để cuốn sách Văn nghệ phê bình [3] : "Nhưng vì năng lực người dịch có hạn, vì văn tự Trung Quốc vốn có nhiều khuyết điểm, cho nên dich xong, xem lại, thấy có nhiều chỗ trúc trắc, thậm chí rất khó hiểu. Nếu phân tích từng câu, lại thấy mất hẳn ngữ khí lúc đầu. Đối với tôi trừ cách dịch cứng nhắc như thế, chỉ có một con đường là bó tay chịu. Điều hy vọng duy nhất còn lại là bạn đọc sẽ cố gắng chịu khó xem mà thôi”. Những câu đó, ông ta thêm vào những vòng khuyên ở bên cạnh rất cẩn thận, và cạnh ba chữ “dịch cứng nhắc” thì khuyên một dãy [4] thế rồi phê bình một cách “nghiêm chỉnh” nói: “Chúng tôi đã “chịu khó cố gắng xem rồi” nhưng chẳng được gì hết. “Dịch cứng nhắc” và “dịch chết” có gì là phân biệt đâu?” Nhóm Trăng mới trong lời thanh minh, tuy nói không có tổ chức gì cả, và trong các bài luận văn, cũng tựa hồ rất ghét những từ “tổ chức”, “tập đoàn” kiểu giai cấp vô sản, nhưng kỳ thực có tổ chức, ít nhất, những bài luận văn về chính trị trong tập này đều “ăn khớp” với nhau; về văn nghệ thì bài kia đăng ký ở chỗ dư ba của “Văn học có tính giai cấp không?”, cũng một nhà phê bình ấy viết, in phía trước. Trong bài này có một đoạn nói: “… Nhưng rất không may là, không có một cuốn nào loại đó, tôi xem hiểu được… Cái làm cho tôi khó hiểu nhất là hành văn.. quả thật đọc lên còn thấy khó hiểu hơn thiên thư nữa… Bây giờ chưa có một người Trung Quốc nào, dùng cách hành văn mà người Trung Quốc xem có thể hiểu được, viết thành một bài trình bày cho chúng tôi thấy lý luận văn học vô sản rút cục là như thế nào”. Bên cạnh cũng có những vòng khuyên. Sợ in phiền phức, tôi đã bỏ đi, bạn đọc tha thứ cho tôi. Tóm lại, ông Lương Thực Thu tự nhận mình là đại biểu cho tất cả người Trung Quốc. Những cuốn sách đó, ông ta xem không hiểu, thì tất cả người Trung Quốc xem cũng không hiểu, cần phải tiêu diệt nó đi trên đất Trung Quốc. Thế là ông ta đã chỉ thị nói: “Kiểu đó nhất định không thể để được” v.v. Ý kiến những người viết bài dịch “thiên thư” khác, tôi không thể đại biểu được, nhưng theo cá nhân tôi thấy, thì sự tình không đơn giản như thế. Một là, ông Lương Thực Thu tự cho rằng ông ta đã “chịu khó cố gắng đọc” rồi, nhưng cuối cùng đã cố gắng chưa, có đầy đủ hay không, còn là một vấn đề. Tự cho mình là “cứng” nhưng thực thì mềm như bông [5] đó là một đặc sắc của nhóm Trăng mới. Hai là, ông Lương Thực Thu tuy tự đứng ra đại biểu cho tất cả người Trung Quốc, nhưng rút cuộc, ông ta có phải ưu tú nhất trong cả nước Trung Quốc hay không, cũng là một vấn đề. Vấn đề này, có thể xem bài “Văn học có tính giai cấp không?” Mà giải thích được. Chữ Proletary bất tất dịch âm, rất có thể dịch nghĩa, còn có lý. Nhưng nhà phê bình ấy lại nói: “Kỳ thực, giở từ điển ra xem thì thấy ý nghĩa chữ ấy không lấy gì làm vẻ vang lắm. Theo cuốn Vibast đại từ điển, Nghĩa chữa Proletary là: “a citizen of the lowest class who served the state not with property, but only by having children”. Proletary là giai cấp trong nước chỉ biết sinh con đẻ cái mà thôi! (ít ra thời đại La Mã là như thế). Kỳ thực, không phải tranh giành cái “vẻ vang” đó. Có lẽ người hơi có chút thường thức thì không đến nỗi cho thời bây giờ là thời đại La Mã, và xem người vô sản hiện đại như người La Mã. Cũng giống như Chemie dịch là “Xá mật học” [6] , người đọc không thể lầm lẫn với “thuật luyện kim” của Ai Cập và đọc bài văn của ông Lương Thực Thu, họ cũng quyết không tra cứu nguồn gốc chữ, rồi hiểu lầm “cầu độc mộc” [7] cũng cầm bút được. Ngay “giở tự điển xem” (Vibast đại từ điển!) cũng “chẳng được gì hết”. Người Trung Quốc vị tất hoàn toàn như thế cả! 2. Nhưng điều tôi lấy làm thú vị là trong đoạn văn của ông Lương Thực Thu trích dẫn ở trên có hai chỗ ông ta dùng chữ “chúng tôi”, hàm ít nhiều ý nghĩa “đa số” và “tập đoàn” rồi. Tất nhiên, tuy tác giả một mình chấp bút, nhưng khẩu khí không phải chỉ có một người. Dùng chữ “chúng tôi” thì hay tuyệt, làm cho người xem thấy có lực lượng, lại không đến nỗi một mình hai vai gánh lấy cả trách nhiệm. Thế nhưng, khi “tư tưởng không thể thống nhất được”, lúc “ngôn luận cần phải tự do”, giống như ông Lương Thực Thu đã phê bình chế dộ tư bản, cũng có một cái “tệ hại”. Tức là, đã có “chúng tôi” của nhóm Trăng mới, cho rằng cái “kiểu dịch chết người của tôi nhất định không được”, nhưng lại còn có những độc giả đọc xong không phải “chẳng được gì hết”, mà cách dịch “cứng nhắc” của tôi vẫn còn tồn tại trong đám “bọn họ” và so với “dịch chết” cũng còn một chút phân biệt. Tôi cũng là một người trong đám “bọn họ” của nhóm Trăng mới, bởi vì điều kiện của việc tôi dịch hay viết, hoàn toàn khác với điều kiện mà ông Lương Thực Thu đòi hỏi. Cái bài “Bàn về dịch cứng nhắc” ấy mở đầu bàn về “dịch sai hơn dịch chết” nói như sau: “Một cuốn sách nhất định không thể dịch sai hoàn toàn được,… dịch sai từng bộ phận, dù sai, cũng còn đem lại cho anh một điều sai lầm; điều sai lầm đó có lẽ quả có hại vô cùng, nhưng khi anh đọc, anh vẫn còn thấy thích thú”. Hai câu cuối có thể khuyên xích chó, nhưng xưa nay, tôi không hề làm cái trò ấy. Tôi dịch hay viết vốn không nhằm mục đích làm cho người đọc “thích thú” mà thường thường làm cho người đọc khó chịu, thậm chí bực bội, thù ghét, căm giận. Những cái đọc xong thấy “thích thú”, thì đã có các bản dịch và sáng tác của những người trong nhóm Trăng mới rồi: thơ của ông Từ Chí Ma, tiểu thuyết của các ông Thẩm Tùng Văn, Lăng Phúc Hoa, mục nói mà chơi của ông Trần Tây Oánh (tức Trần Nguyên), những bài phê bình của ông Lương Thực Thu, ưu sinh học [8] của ông Phan Quang Đán, lại còn có chủ nghĩa nhân văn của ông Bạch Bích Đức nữa! Cho nên, đoạn cuối ông Lương Thực Thu nói: “Sách như thế, xem thật chẳng khác gì xem bản đồ, phải đưa ngón tay ra tìm vị trí, mối liên lạc cú pháp”. Những lời đó, tôi cảm thấy là những lời bỏ đi, nói mà cũng cầm bằng không nói. Đúng. Theo tôi, phải xem “sách như thế” như xem bản đồ, tuy không “thích thú” như xem tranh “Dương Phi ra tắm” hoặc tranh “Ba người bạn giữa tuyết lạnh” [9] , thậm chí còn phải đưa ngón tay mà lần mò (thực thì, có lẽ một mình ông Lương Thực Thu làm như thế mà thôi, chứ người xem bản đồ quen, chỉ dùng con mắt là đủ rồi), nhưng bản đồ cũng không phải là một bản vẽ chết; cho nên xem “dịch cứng nhắc”, dù cũng mệt nhọc như thế, theo thí dụ trên, vẫn có “phân biệt” chút ít với “dịch chết” đấy chứ! Kẻ nhận ra được mấy chữ ABCD, tự cho là một nhà tân học, vẫn không biết các phương trình hoá học, kẻ biết gẩy bàn tính, tự cho là nhà toán học, nhìn vào các bài tính viết ra giấy vẫn chẳng được cái gi! Thời đại ngày nay, vốn không phải hễ làm người học giả, tức là biết được tất cả mọi cái. Nhưng ông Lương Thực Thu có những chứng cứ cụ thể; ông ta đã trích dẫn ba đoạn văn tôi dịch, mặc dù biết rõ “có lẽ vì không có đoạn trên và đoạn dưới, nên ý nghĩa không thật rõ ràng”. Trong bài “Văn học có tính giai cấp không?”, ông ta cũng dùng thủ đoạn như thế, trích hai bài thơ dịch, rồi phê bình một cách tổng quát như sau: “Có lẽ văn học vô sản thật vĩ đại chưa xuất hiện chăng, thế thì tôi nguyện ý chờ, chờ, chờ”. Những kiểu đó, quả thật “thích thú” đấy, nhưng tôi có thể trích một đoạn trang thứ tám bài “Dọn nhà”, sáng tác – ôi sáng tác! – đăng trong một số Trăng mới:
“Gà con có tai không?” Mẹ chưa hề thấy gà con có tai dài.” “Nó làm sao nghe con gọi được?” – Em bé nhớ hôm nọ bà Tư nói cho em biết là tai để nghe, mắt để nhìn mọi cái cơ mà! “Quả trứng này là gà trắng hay gà đen đấy!” – Em Chi thấy bà Tư không trả lời, liền đứng dậy sờ quả trứng và hỏi. “Bây giờ thì chưa biết được, chờ ấp ra con rồi mới biết.” “Chị Uyển chị ấy nói gà con có thể thành gà lớn, những con gà con này cũng có thể thành gà lớn được ư?” “Cứ cho chúng nó ăn no thì chúng nó có thể lớn, như chú gà này lúc mua về, đâu có lớn như thế này?”
Cũng đủ rồi. “Văn chương” thì có thể hiểu được đấy, cũng không cần phải đưa ngón tay ra mà lần mối liên lạc, nhưng tôi không “chờ” nữa, cho rằng, cứ xem đoạn văn này, thì chẳng những không thấy “thích thú” mà cũng rất ít phân biệt với không sáng tác. Cuối cùng, ông Lương Thực Thu còn đặt ra một câu hỏi: “Văn Trung Quốc và văn ngoại quốc không giống nhau… Dịch khó chính là ở chỗ ấy. Nếu như văn pháp, cú pháp, từ pháp của hai thứ ngôn ngữ hoàn toàn giống nhau, thế thì phiên dịch còn có thành một công việc nữa không?... Chúng ta không ngại thay đổi cú pháp đi, để làm cho người đọc có thể hiểu được, đó là điều quan trọng bậc nhất, bởi vì “cố gắng chịu khó””không phải là chuyện thích thú gì, vả lại “dịch cứng nhắc” cũng không thể nào giữ được “ngữ khí tinh vi của nguyên văn”. Nếu như “dịch cứng nhắc” mà có thể giữ được “ngữ khí tinh vi của nguyên văn”, thì thật là lạ, còn có thể nói văn Trung Quốc có “khuyết điểm” ư? Tôi không ngu đến nỗi muốn đòi hỏi văn ngoại quốc giống như văn Trung Quốc, hoặc hy vọng “văn pháp, cú pháp, từ pháp của hai thứ ngôn ngữ hoàn toàn giống nhau”. Nhưng tôi cho rằng quốc ngữ mà văn pháp phức tạp, thì dễ dịch văn ngoại quốc hơn, ngữ hệ gần cũng dễ dịch hơn, và cũng là một công việc. Hà Lan dịch Đức, Nga dịch Ba Lan, có thể nói như thế cũng như chẳng làm gì hay sao? Tiếng Nhật Bản rất “không giống” với tiếng Âu, Mỹ, nhưng dần dần họ thêm cú pháp mới vào, so với cổ văn, càng tiện cho việc dịch thuật mà không mất cái ngữ khí tinh vi của nguyên văn. Tất nhiên lúc đầu cần phải “tìm vị trí mối liên lạc cú pháp”, cái đó làm cho một số người không “thích thú”, nhưng trải qua việc tìm kiếm và thói quen, nay đã đồng hoá, thành cái đã có từ trước rồi! Văn pháp Trung Quốc, so với cổ văn Nhật Bản, còn không hoàn bị bằng, nhưng cũng từng có những cái thay đổi. Thí dụ Sử ký, Hán thư không giống với Kinh Thư; văn bạch thoại ngày nay lại không giống với Sử ký, Hán thư. Có sáng tạo thêm, như đời Đường dịch Kinh Phật, đời Nguyên dịch Thượng dụ [10] , đương thời có rất nhiều “văn pháp, cú pháp, từ pháp” được sáng tạo ra, dùng quen thì không cần phải đưa ngón tay ra lần mò, cũng có thể hiểu được. Bây giờ lại có “văn ngoại quốc”. Nhiều cách cứng nhắc. Theo kinh nghiệm của tôi, dịch như thế, so với việc chia ra làm nhiều câu, có thể giữ được ngữ khí tinh vi của nguyên văn hơn, nhưng bởi vì phải sáng tạo cái mới cho nên văn Trung Quốc để nguyên như trước có khuyết điểm. Có gì là “lạ”, việc gì mà “ư”? Nhưng phải “đưa ngón tay ra lần mò”, “chịu khó cố gắng”, đối với nhiều người, tất nhiên “không phải là một chuyện thích thú”. Có điều, tôi vốn không định tâm làm cho các vị ấy “khoái chí” hoặc “thích thú”, mà chỉ muốn có một số người đọc có thể thu lượm được ít nhiều. Còn như “bọn” ông Lương Thực Thu, buồn hay vui, hoặc có được gì hay không, quả “đối với tôi” như đám mây nổi [11] Ông Lương Thực Thu vốn không cần học hỏi lý luận văn học vô sản, nhưng có những chỗ ông ta xem không hiểu được. Thí dụ ông ta nói: “Những cuốn sách ông Lỗ Tấn dịch mấy năm trước như cuốn Tượng trưng của khổ muộn của Trù Xuyên Bạch [12] không phải là người ta đọc không hiểu, nhưng gần đây, sách dịch của ông ta tựa hồ đã đổi phong cách đi rồi!”. Người chỉ cần có một tí thường thức là biết ngay rằng “văn Trung Quốc với văn ngoại quốc khác nhau”, nhưng cùng một thứ văn ngoại quốc, vì mỗi nhà văn có một lối viết riêng, nên “phong cách” và “vị trí, mối liên lạc cú pháp” cũng có thể rất khác nhau. Câu hoặc đơn giản, hoặc phức tạp, danh từ hoặc thông thương, hoặc chuyên môn, quyết không phải cùng một thứ văn ngoại quốc thì đều dễ hiểu như nhau. Khi tôi dịch cuốn Tượng trưng của khổ muộn cũng giống như bây giờ, cứ bằng vào nguyên bản, theo từng câu, thậm chí theo từng chữ mà dịch, thế nhưng ông Lương Thực Thu lại cho rằng xem còn có thể hiểu được, đó là vì nguyên văn vốn dễ hiểu, và cũng vì ông Lương Thực Thu là một nhà phê bình mới của Trung Quốc, và cũng vì trong đó cú pháp mà tôi đã sáng tạo cứng nhắc xem quen hơn. nếu là học giả ở trong chốn hang cùng ngõ hẻm, chuyên đọc Cổ văn quan chỉ [13] xem thì dễ thường lại không thấy khó hơn “thiên thư” hay sao? 3. Có nhiều những bản dịch lý luận văn học vô sản “còn khó hơn nhiều thư” lần này lại ảnh hưởng không ít đến ông Lương Thực Thu. Xem không hiểu, cũng có thể có ảnh hưởng, nói thế giống như nói khôi hài, nhưng mà thật. Trong bài “Văn học có tính giai cấp không?”, nhà phê bình ấy nói: “Bây giờ tôi phê bình cái gọi là lý luận văn học vô sản, cũng chỉ có thể căn cứ vào một ít tài liệu tôi có thể hiểu được mà thôi” Như thế tức là nói: do đó mà kiến thức của ông ta về thứ lý luận đó, hết sức không hoàn toàn. Nhưng lỗi đó thì chúng tôi (bao gồm cả dịch giả các cuốn “thiên thư” nữa, cho nên gọi là “chúng tôi”) cũng chỉ có thể chịu trách nhiệm một phần thôi, cònmột phần thì tác giả, vì hồ đồ hoặc lười biếng, phải chịu lấy “Sách của Bocdanôp” [14] và nửa cuốn Văn học và cách mạng của Tơrôtxky thì quả đã có bản dịch tiếng Anh đấy. Nước Anh không có “ông Lỗ Tấn” bản dịch nhất định dễ hiểu lắm. Đối với sự nảy sinh của văn học vô sản vĩ đại, ông Lương Thực Thu từng tỏ vẻ nhẫn nại và can đảm “chờ, chờ, chờ” nhưng lần này, đối với lý luận, sao ông ta lại không chờ một chút, tìm về xem rồi hẵng nói. Không biết có mà không tìm, gọi là hồ đồ, biết có mà không tìm, gọi là lười, nếu như chỉ ngồi im lặng, như thế có lẽ “thích thú” đấy, nhưng mở miệng nói, thì lại rất dễ hớp phải khí lạnh. Thí dụ, ngay cái bài văn cao siêu “Văn học có tính giai cấp không?” kia, kết luận là không có tính giai cấp. Muốn xoá bỏ tính giai cấp, tôi cho dứt khoát nhất là học thuyết “Mã Khắc Tư, Ngưu Khắc Tư gì gì” [15] của Ngô Trĩ Huy và học thuyết “trên thế giới làm gì có cái gọi là giai cấp!” của ông nào đó. Thế là vạn dân vui sướng, thiên hạ thái bình rồi. Nhưng ông Lương Thực Thu lại trúng phải một ít độc “Mã Khắc Tư gì” rồi, nên ông ta thừa nhận trước, hiện nay nhiều nơi là chế độ tư bản, dưới chế độ ấy, có những người vô sản. Có điều “những người vô sản đó vốn không tự giác giai cấp. Chỉ mấy ông lãnh tụ quá giàu lòng thương và có một thái độ quá khích mới đem cái quan niệm giai cấp đó truyền thụ cho họ” [16] , muốn thúc đẩy họ liên hiệp lại, kích thích ý chí đấu tranh của họ. Đúng đấy. Nhưng tôi cho rằng người truyền thụ không phải vì lòng thương mà vì sự tưởng cải tạo thế giới. Huống nữa, cái “vốn không có”, thì không làm sao tự giác được, không làm sao kích thích được. Có thể tự giác, có thể kích thích, đủ thấy cái đó vốn có rồi. Cái vốn có thì không che đậy được mãi, thí dụ Galilê [17] nói quả đất xoay chuyển, Đacuyn [18] nói sinh vật tiến hoá, lúc đầu chẳng phải người thì gần như bị các nhà tôn giáo thiêu chết, người thì bị bọn bảo thủ công kích đấy ư? Thế nhưng bây giờ, người ta đối với hai thuyết đó, chẳng ai cho là lạ nữa, chính bởi vì quả đất vốn vẫn xoay chuyển, sinh vật rõ ràng đang tiến hoá. Thừa nhận là có, mà lại muốn che đậy cho là không, nếu không khéo léo tuyệt trần thì không làm được. Nhưng ông Lương Thực thu đã có cách loại trừ đấu tranh. Ông ta cho, như Rutxô nói “tư bản là cơ sở của văn mình”, “cho nên công kích chế độ tư sản tức là phản đối văn minh [19] ”, “một người vô sản, nếu có tiền đồ, thì chỉ cần chịu khổ chịu sở, thành thật làm việc suốt đời, ít hay nhiều, nhất định có thể dành dụm được một ít tư sản tương đối khá. Đó là thủ đoạn đấu tranh sinh sống chính đáng”. Tôi nghĩ Rutxô sống cách ngày nay tuy đã một trăm năm mươi năm, nhưng không đến nỗi cho rằng cho văn minh quá khứ, vị lai đều lấy tư sản làm cơ sở (Nhưng nếu nói lấy quan hệ kinh tế làm cơ sở thì tất nhiên đúng). Hy Lạp, Ấn độ đều có văn minh, nhưng thời phồn thịnh đều không phải là xã hội tư sản, cái đó có lẽ ông ta cũng biết, nếu không biết, thì ông ta nhầm. Còn như cái cách “chính đáng” người vô sản nêu “chịu cực chịu khổ” mà leo lên giai cấp hữu sản, thì ở Trung Quốc, đó là lời cổ huấn mà các cụ nhiều tiền, lúc cao hứng, thường cũng bày dạy cho những người công nhân nghèo khổ. Trên thực tế, bày dạy cho những người công nhân nghèo khổ. Trên thực tế, hiện nay, những người “vô sản” đang “chịu cực chịu khổ thành thật” muốn leo lên giai cấp trên, cũng còn nhiều. Nhưng đó là lúc chưa có người “đem cái quan niệm giai cấp ấy truyền thụ cho họ”. Khi đã truyền thụ rồi, thì họ không chịu leo từng người một nữa, mà, đúng như ông Lương Thực Thu nói “họ là một giai cấp, họ muốn có tổ chức, họ là một tập đoàn, cho nên họ sẽ không theo con đường thường, họ nhảy một bước lên đoạt lấy quyền chính trị, quyền tài chính, nhảy một bước lên làm giai cấp thống trị”. Có thể có những “người vô sản” muốn “chịu khổ chịu sở, thành thật làm việc suốt đời, không ít thì nhiều, nhất định có thể có một ít tư sản tương đối khá” hay không? Tất nhiên còn. Nhưng người đó phải kể vào hạng “người hữu sản chưa phát tài”. Lời khuyên nhủ của ông Lương Thực Thu làm cho người vô sản buồn nôn, chỉ có thể cùng các cụ lớn đem ra tán thưởng với nhau mà thôi. Thế thì, từ nay về sau thế nào? Ông Lương Thực Thu cho rằng không đáng lo ngại. Bởi vì “cái thứ hiện tượng cách mạng đó không thể lâu dài được, qua sự tiến hoá tự nhiên, định luật ai hơn thì thắng, ai kém thì thua, sẽ lại được chứng minh, vẫn là người thông minh tài giỏi hơn đời chiếm địa vị hơn hẳn, còn người vô sản vẫn là người vô sản”. Nhưng giai cấp vô sản đại khái cũng biết “thế lực phản văn minh không chóng thì chầy sẽ bị thế lực văn minh chinh phục”, cho nên “cần phải xây dựng cái gọi là nền văn hoá vô sản”... trong đó bao gồm cả văn nghệ, học thuật. [20] Từ đây trở xuống, mới bàn về phê bình văn học. 4. Trước hết, ông Lương Thực Thu cho rằng lý luận văn học vô sản sai lầm ở chỗ “đem những ràng buộc giai cấp cột vào văn học” bởi vì một nhà tư bản và một người lao động có chỗ khác nhau, nhưng còn có chỗ giống nhau, “nhân tính của họ (hai chữ nhân tính vốn có vòng khuyên bên cạnh) chỉ là một” thí dụ đều vui buồn, yêu ghét, đều yêu thương (nhưng đây là “nói bản thân tình yêu, chứ không phải phương thức yêu đương”), “văn học chính là nghệ thuật biểu hiện cái nhân tính tối cơ bản đó” [21] . Những lời đó vừa mâu thuẫn vừa trống rỗng. văn minh đã lấy tư bản làm cơ sở, người nghèo khổ phải kiệt sức leo lên vì “có tiền đồ”, thế thì leo lên là ý nghĩa của nhân sinh, người giàu là bậc chí tôn trong nhân loại, văn học chỉ cần biểu hiện giai cấp tư sản là đủ rồi, lại hà tất “quá giàu lòng thương” như thế, mà bao gồm cả những người vô sản “thua kém” vào nữa? Huống chi “bản thân” của “nhân tính”, thì biểu hiện như thế nào? Thí dụ, tính chất hoá học của nguyên chất hay tạp chất có sức hoá hợp, tính chất vật lý có độ cứng, muốn tỏ rõ cái lực đó hoặc mức độ đó, phải dùng hai thứ vật chất để biểu hiện. Nếu nói không dùng vật chất mà tỏ rõ “bản thân” đơn thuần của sức hoá hợp và độ cứng, thì không có một diệu pháp nào như thế cả. Nhưng đã dùng vật chất, thì hiện tượng đó tức lại vì vật chất mà khác nhau. Văn học mà không thể nào bỏ được tính giai cấp của nó, không cần phải “ràng buộc”, tất nhiên phải như thế. Có nhiên “vui buồn, yêu ghé là tình của con người”, nhưng người nghèo quyết không có cái buồn buôn thua bán lỗ ở Sở giao dịch, ông vua dầu hoả làm sao biết được nỗi cực khổ của bà già nhặt rỉ than ở Bắc Kinh, nạn dân vùng đói kém chắc không trồng hoa lan như các cụ lớn giàu sang, lão Tiêu Đại trong phủ họ Giả không yêu cô Lâm Đại Ngọc [22] . “Còi nhà máy ơi!” “Lê Nin ơi!” cố nhiên không phải như thế là văn học vô sản, thế nhưng “tất cả mọi người ơi”, “Việc vui đến rồi, người vui sướng rồi!”, cũng không phải là văn học biểu hiện “bản thân” của “nhân tính”. Nếu cho văn học biểu hiện nhân tính tối phổ biến là cao nhất thì văn học biểu hiện động tính tối phổ biến – dinh dưỡng, hô hấp, vận động, sinh đẻ - hoặc giả, bỏ “vận động” đi, văn học biể