Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, bên cạnh những sản phẩm hữu hình, các nhu cầu về dịch vụ của xã hội cũng không ngừng tăng lên. Sự phát triển của dịch vụ không những có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mà còn trở thành một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế.
Cùng với các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ bưu chính viễn thông với tư cách là một loại hình dịch vụ đặc thù trong nền kinh tế đã và đang có những đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kể từ khi đổi mới, ngành Bưu chính, viễn thông ở Nghệ An đã có những bước phát triển nhất định, trở thành nhân tố thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Để phục vụ đẩy đủ việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Bưu chính, viễn thông ở Nghệ An cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển. Tuy nhiên, những bất cập về cơ chế chính sách, về các nguồn lực như vốn, nhân lực . đã và đang cản trở sự phát triển và phát huy vai trò của dịch vụ bưu chính, viễn thông trên địa bàn tỉnh.
Những vấn đề đó đang cần được nghiên cứu để tìm ra giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của loại hình dịch vụ này cả về số lượng và chất lượng trên cơ sở tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, đáp ứng kịp thời những nhu cầu ngày càng đa dạng và khó tính của các chủ thể thụ hưởng loại hình dịch vụ này. Nhằm góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Nghệ An, tác giả lựa chọn vấn đề “Dịch vụ bưu chính, viễn thông với phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
99 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5718 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dịch vụ bưu chính, viễn thông với phát triển kinh tế - Xã hội ở Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, bên cạnh những sản phẩm hữu hình, các nhu cầu về dịch vụ của xã hội cũng không ngừng tăng lên. Sự phát triển của dịch vụ không những có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, mà còn trở thành một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế.
Cùng với các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ bưu chính viễn thông với tư cách là một loại hình dịch vụ đặc thù trong nền kinh tế đã và đang có những đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kể từ khi đổi mới, ngành Bưu chính, viễn thông ở Nghệ An đã có những bước phát triển nhất định, trở thành nhân tố thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
Để phục vụ đẩy đủ việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Bưu chính, viễn thông ở Nghệ An cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển. Tuy nhiên, những bất cập về cơ chế chính sách, về các nguồn lực như vốn, nhân lực ... đã và đang cản trở sự phát triển và phát huy vai trò của dịch vụ bưu chính, viễn thông trên địa bàn tỉnh.
Những vấn đề đó đang cần được nghiên cứu để tìm ra giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của loại hình dịch vụ này cả về số lượng và chất lượng trên cơ sở tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, đáp ứng kịp thời những nhu cầu ngày càng đa dạng và khó tính của các chủ thể thụ hưởng loại hình dịch vụ này. Nhằm góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Nghệ An, tác giả lựa chọn vấn đề “Dịch vụ bưu chính, viễn thông với phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dịch vụ bưu chính viễn thông đã và đang được các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, các cá nhân ở Trung ương và các địa phương quan tâm nghiên cứu, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề tài, bài viết đề cập đến các vấn đề này.
Trên địa bàn Tỉnh Nghệ An, đã có các công trình nghiên cứu và công bố về dịch vụ bưu chính, viễn thông như “Qui hoạch phát triển Bưu chính viễn, thông tỉnh Nghệ An đến năm 2020” của Sở Bưu chính Viễn thông tỉnh Nghệ An và một số đề tài tiến sĩ, thạc sĩ. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu đề cập tới phương diện kỹ thuật của Bưu chính viễn thông. Một số đề tài khác đã nghiên cứu về cơ chế quản lý doanh nghiệp bưu chính viễn thông, về sản xuất kinh doanh, công tác hạch toán kế toán... với tư cách là những nội dung đã được ứng dụng phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của Nghệ An và phục vụ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào trên giác độ kinh tế chính trị nghiên cứu về vai trò của dịch vụ bưu chính, viễn thông đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ bưu chính viễn thông, phân tích đánh giá thực trạng dịch vụ bưu chính viễn thông ở tỉnh Nghệ An và tác động của nó đối với phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả hoạt động của loại hình dịch vụ này góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, nhiệm vụ của luận văn tập trung vào những nội dung sau:
- Làm rõ các vấn đề lý luận chủ yếu về dịch vụ bưu chính viễn thông đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung và ở tỉnh Nghệ An nói riêng.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông một số địa phương để rút ra bài học cho tỉnh Nghệ An .
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông ở Nghệ An tời gian qua, tác động của loại hình dịch vụ này đối với phát triển kinh tế xã hội ở Nghệ An thời gian qua, tìm ra những thành công, hạn chế cùng các nguyên nhân của hạn chế.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Nghệ An đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu về dịch vụ bưu chính viễn thông với tư cách là một loại hình dịch vụ và những yếu tố kinh tế - xã hội có liên quan trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Phạm vi nghiên cứu
Trên góc độ của khoa học kinh tế chính trị, luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận có liên quan đến nội dung phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An và những yếu tố kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An có liên quan đến sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông.
Về thời gian: Từ năm 2000 đến nay.
6. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận văn sử dụng các phương pháp truyền thống của kinh tế chính trị Mác - Lênin như trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lô gíc gắn với lịch sử, hệ thống hoá, thống kê thu thập số liệu, điều tra khảo sát, phân tổ, phân tích, tổng hợp, so sánh nhằm tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách có hệ thống.
7. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về dịch vụ bưu chính viễn thông.
- Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát, kế thừa chọn lọc các tài liệu có liên quan phục vụ việc nghiên cứu các nội dung theo yêu cầu nhiệm vụ của luận văn. Từ đó phân tích, đánh giá làm rõ các yếu tố kinh tế - xã hội ở tỉnh Nghệ An có tác động ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông trên địa bàn và tác động ảnh hưởng trở lại của dịch vụ bưu chính viễn thông trên địa bàn đối với phát triển kinh tế - xã hội.
- Rút ra được những hạn chế, những bức xúc cần được tháo gỡ, đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Nghệ An đến năm 2010 và 2020.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỊCH VỤ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
1.1.1. Khái niệm dịch vụ bưu chính viễn thông
1.1.1.1. Quan điểm chung về dịch vụ
Dịch vụ là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu kinh tế. Tuy nhiên, nội hàm của dịch vụ được hiểu với những nghĩa còn khác nhau. Trong Bách khoa toàn thư xô viết lớn, dịch vụ được hiểu, thứ nhất, là hình thái của lao động phi sản xuất, là quan hệ kinh tế-xã hội thể hiện sự tiêu dùng thu nhập, thứ hai, là hoạt động có mục đích nhất định tồn tại dưới hình thái hiệu quả có ích của lao động [40]. Đây là quan niệm phổ biến của thời kỳ kinh tế hiện vật, phủ nhận kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội, từ đó, đã gây cản trở cho sự phát triển của các ngành dịch vụ.
Những quan điểm gần đây đã khắc phục được tính phiến diện của quan niệm kể trên. Trong Từ điển kinh tế Megabook.ru, dịch vụ được hiểu là công việc được thực hiện theo đơn đặt hàng nhưng không tạo ra sản phẩm có hình thái độc lập mới [41]. Trong Từ điển thuật ngữ kinh tế, dịch vụ là những dạng hoạt động, công việc, mà trong quá trình thực hiện chúng không tạo ra sản phẩm vật chất có hình thái vật thể mới, nhưng làm cho sản phẩm hiện có đã được tạo ra thay đổi về chất. Đó là của cải được cung cấp không phải dưới hình thái hiện vật, mà là dưới hình thái hoạt động [42].
Từ những quan điểm trên, có thể thấy điểm chung trong các quan niệm về dịch vụ là đều coi dịch vụ là kết quả có ích của một dạng lao động đặc thù. Kết quả đó được biểu hiện ra dưới hình thái phi vật thể hay vô hình. Trong tác phẩm “Các học thuyết về giá trị thặng dư”, C. Mác cũng đã sử dụng thuật ngữ “sự phục vụ” để thể hiện khái niệm dịch vụ. Theo đó, có thể hiểu dịch vụ là những hiệu quả có ích của những lao động cụ thể tồn tại dưới hình thái sản phẩm vô hình [19, tr.204 - 219, 573 - 591]. Như vậy, dịch vụ là loại hình sản phẩm đặc thù của lao động, là hiệu quả có ích của lao động cụ thể, tồn tại dưới hình thái phi vật thể. Những đặc điểm chủ yếu của dịch vụ so với các sản phẩm lao động hữu hình bao gồm:
Thứ nhất, dịch vụ là sản phẩm vô hình. Sản phẩm hữu hình có thể dễ dàng định lượng và tiêu chuẩn hóa. Còn kết quả của hoạt động dịch vụ, mặc dù có thể cảm nhận, đánh giá, nhưng rất khó lượng hoá vì không tách riêng ra dưới hình thái hiện vật được. Phần lớn công việc của những người làm dịch vụ thường biến đi ngay khi làm xong, rất ít khi để lại một dấu vết hay một giá trị nào đó để sau này có thể cho ta nhận được một số lượng dịch vụ ngang như thế. Kết quả một số dịch vụ nhất định có thể tồn tại như một giá trị sử dụng có hình thái độc lập tách khỏi người sản xuất và người tiêu dùng, có thể duy trì sự tồn tại, lưu thông trong một khoảng thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng như những tác phẩm nghệ thuật, Nhưng, thực ra, giá trị sử dụng của chúng không phải là bản thân yếu tố vật chất của sản phẩm tồn tại độc lập đó, mà là “cái hồn” của những tác phẩm đó, thể hiện ở cái đẹp, cái hay mà từng người tiêu dùng cảm thụ được. Cũng có những dịch vụ phải có sản phẩm vật chất kèm theo, làm trung gian, như dịch vụ cung ứng bữa ăn trên máy bay hay trên xe lửa, hoặc là dịch vụ cho thuê nhà.... nhưng bản thân dịch vụ đó vẫn là vô hình.
Thứ hai, phần lớn dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời, nên dịch vụ không thể tích luỹ, để dành. Sản phẩm hiệu vật có thể tách rời sản xuất với tiêu dùng, có thể tích trữ trong kho, nhưng dịch vụ thì thường sản xuất đến đâu tiêu dùng đến đấy, không tiêu dùng sẽ bỏ phí vì dịch vụ không thể tích trữ, để dành. Ví dụ, khi xe chở khách, người lái xe tạo ra sự di chuyển đến đâu thì hành khách hưởng thụ đến đó. Nếu xe có 4 chỗ mà chỉ có một người ngồi thì ba chỗ còn lại sẽ bị bỏ phí, không thể để dành cho lần sau được.
Thứ ba, chất lượng của dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự tiếp xúc trực tiếp hay sự tương tác giữa người cung cấp dịch vụ và người được thụ hưởng dịch vụ. Sản phẩm hiện vật có thể đánh giá thông qua các tiêu chuẩn cụ thể về chất lượng mà không cần có sự tiếp xúc trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Còn chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào sự giao tiếp, thái độ và năng lực đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng, đem lại sự hài lòng và thiện cảm của khách hàng đối với người phục vụ.
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình dịch vụ cũng trở thành hàng hoá. Bên cạnh những hàng hoá hiện vật, trên thị trường còn có những hàng hóa vô hình hay dịch vụ, như dịch vụ của bác sĩ, giáo viên, luật sư, v.v. Giá trị sử dụng của dịch vụ là cũng đáp ứng một nhu cầu nào đó của người mua. Để tạo ra dịch vụ cũng cần tới những chi phí lao động nhất định. Những người làm dịch vụ cũng cần nhận được thu nhập bằng tiền từ hoạt động dịch vụ của mình, đồng những người được thụ hưởng dịch vụ cũng phải chi tiền để được hưởng thụ những dịch vụ đó. Việc mua những dịch vụ hoàn toàn không khác gì chi tiền mua bất cứ loại hàng hóa nào khác, vì vậy, dịch vụ cũng có giá trị trao đổi. Căn cứ chủ yếu để xác định giá cả thị trường của dịch vụ là chi phí sản xuất ra chúng.
Khi lực lượng sản xuất còn chưa phát triển, các sản phẩm mang hình thái vật thể như nông sản, sản phẩm của các ngành công nghiệp… có vai trò nền tảng trực tiếp của đời sống xã hội, vì vậy việc sản xuất ra chúng là quan tâm hàng đầu của xã hội. Theo sự phát triển của lực lượng sản xuất, số lượng và chủng loại các sản phẩm phi vật thể tăng dần, có vai trò không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân ngày càng tăng của xã hội, mà còn có tác động ngày càng lớn tới các ngành sản xuất sản phẩm vật thể. Vì vậy, tốc độ phát triển của các hoạt động dịch vụ có xu hướng tỷ lệ thuận với trình độ phát triển của sản xuất xã hội, các ngành dịch vụ cũng được hình thành và mở rộng không ngừng dưới tác động của phân công lao động xã hội.
Ngày nay có nhiều cách phân loại dịch vụ. Theo nguồn gốc hình thành sản phẩm dịch vụ được phân loại theo ngành, lĩnh vực như dịch vụ giao thông vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, y tế, giáo dục, du lịch, tài chính ngân hàng, quản lý nhà nước …. Theo tính chất kinh tế - xã hội của dịch vụ trong nền kinh tế thị trường có thể phân biệt dịch vụ có tính chất thị trường và dịch vụ có tính chất phi thị trường. Dịch vụ có tính chất phi thị trường là các dịch vụ được cung cấp miễn phí hoặc với giá cả thấp ở mức không bù đắp được những chi phí tạo ra chúng.
Sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tác động lẫn nhau chặt chẽ; dịch vụ là một điều kiện để phát triển sản xuất, kinh doanh. Sự phát triển dịch vụ hợp lí, có chất lượng cao là một biểu hiện của nền kinh tế phát triển và một xã hội văn minh. Do ý nghĩa kinh tế, xã hội to lớn nên hoạt động dịch vụ trở thành lĩnh vực kinh tế quan trọng, có vị trí lớn trong cơ cấu kinh tế của các quốc gia phát triển. Ví dụ, ở EU (2006) dịch vụ chiếm 70,6 % GDP; Xingapo (2007)- 68,8%; ở Hồng Kông (2007) - 91,7%; Mỹ (2007) - 79%, Nhật Bản (2007) - 72% [43].
Dịch vụ là những hoạt động cần thiết, tất yếu được nẩy sinh từ yêu cầu của các hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội và nhu cầu đời sống của con người. Dịch vụ sản xuất ra các điều kiện nhằm phục vụ các hoạt động xã hội và đời sống con người. Các sản phẩm của dịch vụ cũng là những hàng hoá được mua bán trao đổi trên thị trường. Dịch vụ vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Xã hội phát triển càng cao thì lĩnh vực sản xuất dịch vụ có xu hướng phát triển ngày càng tăng. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nhất là nền kinh tế tri thức, trong GDP và cơ cấu lao động xã hội, cơ cấu kinh tế quốc dân, dịch vụ là một bộ phận hàng hóa vô hình ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Dịch vụ là nguồn của cải vô tận, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.1.1.2. Khái niệm và loại hình dịch vụ bưu chính, viễn thông
Khái niệm về dịch vụ bưu chính viễn thông
Dịch vụ bưu chính viễn thông bao gồm các dịch vụ bưu chính và dịch vụ viễn thông. Bưu chính là bộ phận ngành bưu điện phụ trách việc chuyển thư từ, báo chí, tiền bạc, bưu kiện. Dịch vụ bưu chính ban đầu là dịch vụ tải nội dung thông tin thông qua các phương tiện như bì thư, ấn phẩm. Theo sự phát triển của ngành bưu chính, dịch vụ bưu chính ngày càng được mở rộng ra bao gồm cả các dịch vụ chuyển bưu phẩm, bưu kiện hàng hoá thông qua các phương tiện vận chuyển bằng sức người, động vật và máy móc khác…
Viễn thông là nói về sự liên lạc với những nơi rất xa. Viễn thông (trong các ngôn ngữ Châu Âu xuất phát từ tele của tiếng Hy Lạp có nghĩa là xa và communicare của tiếng La tinh có nghĩa là thông báo) miêu tả một cách tổng quát tất cả các hình thức trao đổi thông tin qua một khoảng cách nhất định mà không phải chuyên chở những thông tin này đi một cách cụ thể (thí dụ như thư). Các tín hiệu nhìn thấy được đã được sử dụng trong thế kỷ 18 như hệ thống biểu hiện các chữ cái bằng cách đặt tay hay 2 lá cờ theo một vị trí nhất định (semaphore), hay máy quang báo (heliograph) là một dụng cụ truyền tin bằng cách phản chiếu ánh sáng mặt trời.
Theo nghĩa hẹp hơn, ngày nay viễn thông được hiểu như là cách thức trao đổi dữ liệu thông qua kỹ thuật điện, điện tử và các công nghệ hiện đại khác. Các dịch vụ viễn thông đầu tiên theo nghĩa này là điện báo và điện thoại. Ngày nay các thiết bị viễn thông là một thành phần cơ bản của hệ thống hạ tầng.
Theo quy định tại Điều 37 - Nghị định số 109/CP, dịch vụ viễn thông được hiểu là dịch vụ truyền đưa, lưu trữ và cung cấp thông tin bằng hình thức truyền dẫn, phát, thu những ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh thông qua mạng lưới viễn thông công cộng do doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông cung cấp.
Từ những trình bày ở trên có thể khẳng định, dịch vụ bưu chính viễn thông là kết quả tất yếu được nẩy sinh từ yêu cầu sản xuất ra các phương thức, phương tiện truyền tải thông tin nhằm phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội và nhu cầu đời sống con người. Quá trình truyền tải thông tin không những thường gắn liền với quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hoặc giữa các quá trình đó với nhau. Nó được xác định bằng đại lượng thời gian, không gian truyền tin. Quá trình truyền tải thông tin ban đầu được thực hiện thông qua dịch vụ bưu chính, nhưng dưới tác động của nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ, dịch vụ viễn thông đã được hình thành và phát triển nhanh với nhiều loại hình phong phú, đa dạng. Dịch vụ bưu chính viễn thông thể hiện mối quan hệ giữa các chủ thể cung cấp và thụ hưởng dịch vụ truyền tải thông tin thông qua hoạt động của ngành bưu chính và viễn thông.
Các loại hình dịch vụ bưu chính viễn thông
Thứ nhất, dịch vụ bưu chính: Dịch vụ bưu chính bao gồm các dịch vụ bưu chính cơ bản, dịch vụ bưu chính cộng thêm, dịch vụ bưu chính công ích:
Dịch vụ bưu chính cơ bản được thực hiện bằng việc nhận gửi, chuyển, phát bưu phẩm, bưu kiện thông qua mạng bưu chính công cộng, mạng chuyên dùng và mạng chuyển phát. Bưu phẩm bao gồm thư (trừ thư do doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chuyển phát thư thực hiện) bưu thiếp, gói nhỏ, gói án phẩm, học phẩm dùng cho người mù được gửi qua mạng bưu chính công cộng. Bưu kiện bao gồm vật phẩm hàng hoá được đóng góoics khối lượng không quá năm mươi kilôgam (50 kg) được gửi qua mạng bưu chính công cộng.
Dịch vụ bưu chính cộng thêm là dịch vụ được cung cấp thêm vào dịch vụ bưu chính cơ bản để đáp ứng yêu cầu cao hơn về chất lượng của người sử dụng. Cơ quan quản lý nhà nước về bưu chính viễn thông quy định và công bố danh mục cụ thể các dịch vụ bưu chính quy định tại điều này.
Dịch vụ bưu chính công ích bao gồm dịch vụ bưu chính phổ cập, dịch vụ dịch vụ bưu chính bắt buộc. Dịch vụ bưu chính công ích được cung cấp đến mọi người dân theo các điều kiện về khối lượng, chất lượng và giá cước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Dịch vụ bưu chính bắt buộc là dịch vụ bưu chính được cung cấp theo yêu cầu của Nhà nước nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Căn cứ vào yêu cầu của Nhà nước, tình hình phát triển kinh tế - xã hội và bưu chính trong từng thời kỳ, cơ quan quản lý nhà nước về bưu chính viễn thông quy định cụ thể việc cung cấp dịch vụ bưu chính công ích. Nhà nước có chính sách hỗ trợ việc cung cấp dịch vụ bưu chính công ích thông qua dịch vụ bưu chính dành riêng và các cơ chế hỗ trợ tài chính khác.
Dịch vụ chuyển phát thư là dịch vụ nhận gửi, chuyển, phát thông tin dưới dạng văn bản được đóng gói, dán kín, có khối lượng đơn chiếc không quá hai kilôgam (02 kg) và gửi tới một địa chỉ cụ thể thông qua mạng bưu chính hoặc mạng chuyển phát.
Các loại hình dịch vụ bưu chính ngày nay được thược hiện thông qua hoạt động của các mạng bưu chính như mạng bưu chính công cộng, mạng bưu chính chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang nhân dân, mạng chuyển phát. Mạng bưu chính công cộng được xây dựng, quản lý và phát triển theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Mạng bưu chính công cộng bao gồm các trung tâm đầu mối, bưu cục, điểm phục vụ, thùng thư công cộng được kết nối với nhau bằng các tuyến đường thư. Các bưu cục, điểm phục vụ, thùng thư công cộng được ưu tiên đặt tại các nhà ga, bến xe, cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu, khu dân cư và các địa điểm công cộng khác để phục vụ nhu cầu của người sử dụng. Các công trình thuộc mạng bưu chính công cộng là một bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng phải có trong quy hoạch, thiết kế tổng thể xây dựng các khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, khu chế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van cua Thong 9_11).doc1.doc
- bia lv.doc