Đề tài Điều tra tình hình nuôi và chơi cá cảnh trên địa bàn Thành phố Huế

Từ thế kỉ XVII, việc nuôi cá cảnh đã trở một thú vui giải trí của nhiều người trên thế giới. Nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn, thú vui giải trí của con người ngày càng cao, con người đã không chỉ bằng lòng với những cái mà thiên nhiên ban tặng, những cái kỳ lạ, những cái đẹp hiện hình trên cơ thể của cá, con người đã ứng dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến trong lai ghép, tạo màu, áp dụng sự đột biến gen để tạo ra những loài lạ về hình dáng, đẹp về màu sắc, có giá trị thẩm mĩ cao và được nhiều người ưa chuộng. Nuôi cá cảnh đã trở thành một nghề, cũng như những nghề chơi nuôi khác, không chỉ mang lại cuộc sống tươi vui cho một gia đình, một tập thể mà còn là một nghề kinh doanh mang tính chất công nghiệp. Ngoài ra, việc nuôi cá cảnh còn là một thú vui giải trí lành mạnh thể hiện lòng yêu thiên nhiên, giúp cho con người giảm bớt sự căng thẳng của đời thường mà sống thoải mái hơn. Ngày nay, do đời sống vật chất ngày càng cao nên nhu cầu về mặt tinh thần ngày càng được coi trọng. Chính vì vậy thú chơi cá cảnh đã và đang phát triển trên khắp cả nước. Hiện nay ở Thừa Thiên Huế nhu cầu nuôi cá cảnh đã phát triển rộng khắp. Do đó nhiều nghệ nhân đã bắt tay và đầu tư vào việc lai tạo, chọn giống tạo ra được một số dạng cá cảnh đẹp nhưng về mặt giá trị còn thấp. Những loài cá cảnh có giá trị cao hầu như phải nhập từ các nơi khác đến Huế làm giàu cho khu hệ cá cảnh hiện nay ở Thừa Thiên Huế. Để góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc xác định nhu cầu chơi cá cảnh của người dân cũng như xác định thành phần loài cá cảnh ở Thành phố Huế từ đó có những phát triển đúng đắn đối với ngành cá cảnh tỉnh nhà, chúng tôi thực hiện đề tài: “Điều tra tình hình nuôi và chơi cá cảnh trên địa bàn Thành phố Huế”.

doc45 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5352 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều tra tình hình nuôi và chơi cá cảnh trên địa bàn Thành phố Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1 MỞ ĐẦU Từ thế kỉ XVII, việc nuôi cá cảnh đã trở một thú vui giải trí của nhiều người trên thế giới. Nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn, thú vui giải trí của con người ngày càng cao, con người đã không chỉ bằng lòng với những cái mà thiên nhiên ban tặng, những cái kỳ lạ, những cái đẹp hiện hình trên cơ thể của cá, con người đã ứng dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến trong lai ghép, tạo màu, áp dụng sự đột biến gen để tạo ra những loài lạ về hình dáng, đẹp về màu sắc, có giá trị thẩm mĩ cao và được nhiều người ưa chuộng. Nuôi cá cảnh đã trở thành một nghề, cũng như những nghề chơi nuôi khác, không chỉ mang lại cuộc sống tươi vui cho một gia đình, một tập thể mà còn là một nghề kinh doanh mang tính chất công nghiệp. Ngoài ra, việc nuôi cá cảnh còn là một thú vui giải trí lành mạnh thể hiện lòng yêu thiên nhiên, giúp cho con người giảm bớt sự căng thẳng của đời thường mà sống thoải mái hơn. Ngày nay, do đời sống vật chất ngày càng cao nên nhu cầu về mặt tinh thần ngày càng được coi trọng. Chính vì vậy thú chơi cá cảnh đã và đang phát triển trên khắp cả nước. Hiện nay ở Thừa Thiên Huế nhu cầu nuôi cá cảnh đã phát triển rộng khắp. Do đó nhiều nghệ nhân đã bắt tay và đầu tư vào việc lai tạo, chọn giống tạo ra được một số dạng cá cảnh đẹp nhưng về mặt giá trị còn thấp. Những loài cá cảnh có giá trị cao hầu như phải nhập từ các nơi khác đến Huế làm giàu cho khu hệ cá cảnh hiện nay ở Thừa Thiên Huế. Để góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc xác định nhu cầu chơi cá cảnh của người dân cũng như xác định thành phần loài cá cảnh ở Thành phố Huế từ đó có những phát triển đúng đắn đối với ngành cá cảnh tỉnh nhà, chúng tôi thực hiện đề tài: “Điều tra tình hình nuôi và chơi cá cảnh trên địa bàn Thành phố Huế”. Mục tiêu của đề tài: - Bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu. - Nâng cao kiến thức thực tế. - Tìm ra các thành phần loài đang được nuôi phổ biến và tình hình nuôi cá cảnh trên địa bàn thành phố Huế PHẦN 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Sơ lược tình hình nghiên cứu cá cảnh trong nước và thế giới 2.1.1. Tình hình nghiên cứu cá cảnh trên thế giới Thú nuôi chơi và thưởng ngoạn cá cảnh đã có lịch sử lâu đời trên thế giới. Từ hàng ngàn năm trước, các vua chúa Trung Hoa đã nuôi giữ cá chép và cá vàng làm cảnh. Tuy nhiên, thú nuôi chơi cá cảnh chỉ trở nên phổ biến và có tính chất đại chúng trong khoảng 200 năm trở lại, đi cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng nhu cầu về mặt tinh thần...[2] Trong các loài cá cảnh, cá chép được ghi nhận là loài có lịch sử nuôi lâu đời nhất, từ 2000 năm trước công nguyên ở Trung Hoa. Trung Hoa cũng là nơi đầu tiên sinh sản nhân tạo cá thành công và là chiếc nôi của hoạt động chọn lọc và lai tạo cá vàng và cá chép làm cảnh. Người Nhật học kỹ thuật chọn giống cá vàng và cá chép từ Trung Hoa, sau đó đã tạo nên thương hiệu “cá chép Nhật”…[13] Cá cảnh đa số có nguồn gốc ở những nước thuộc vùng nhiệt đới như Đông Nam Á, Nam Mỹ, Châu Phi. Đến thế kỷ XVII được du nhập vào Châu Âu, đầu tiên ở Bồ Đào Nha, tiếp đến là Anh. Đến thế kỷ XVIII mới lan truyền sang Pháp và nhiều nước khác trên thế giới. Kể từ đó đã có nhiều công trình nghiên cứu về cá cảnh. Điển hình có các nghiên cứu của một số tác giả như Baron Cuvier (1800) đã nghiên cứu và đặt tên cho loài cá tai tượng... và một số công trình nghiên cứu của một số tác giả khác [1][9]. Từ Trung Quốc, lĩnh vực cá cảnh được bắt đầu truyền sang Châu Âu. Điển hình có các nghiên cứu của một vài tác giả như: S.H. Ward (1841), Philip Goss (1853), Carbonnier (1969) đã nuôi và cho sinh sản thành công loài cá Tiên Cung (Macropodus operecularis). Giáo sư người Đức Kensad. Z. Lorenz đã nghiên cứu về tập tính sống của một số loài cá cảnh [1]. Đến nay, cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn ở các vùng nhiệt đới đã cung cấp cho các nhà nuôi cá cảnh trên thế giới một số lượng chủng loài phong phú với khoảng 600 loài thuộc nhiều bộ, họ khác nhau. Trong thú chơi cá cảnh, có lẽ sự xuất hiện của chiếc bể kính là cuộc cách mạng thật sự tạo bước ngoặt lớn đưa cá cảnh trở nên phổ biến và có tính chất đại chúng hơn. Cá cảnh được nuôi thả trong bể kính từ những năm 1750 ở Anh, nhưng gần 100 năm sau đó hình thức nuôi này vẫn không thể phát triển do những hạn chế về kiến thức và sự hiểu biết về cách thức quản lý chất lượng nước cũng như duy trì cân bằng cây – cá và khí ôxy [14]. Các bể kính trưng bày cá cảnh xuất hiện thường xuyên hơn ở châu Âu trong giai đoạn từ 1836 đến 1850, mặc dù thời kỳ đó các bể kính cá cảnh chưa có tên gọi như ngày nay. Điều đáng lưu ý là các bể kính này phần nhiều trưng bày cá cảnh biển, có lẽ do sự nghèo nàn về chủng loại của cá cảnh nước ngọt vào thời kỳ đó. Vào năm 1853, bể cá cảnh công cộng đầu tiên được khánh thành ở Sở thú Luân Đôn, với tên gọi là “nhà cá” (Fish House). Philip Henry Gosse là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “bể cá cảnh” (Aquarium) trong quyển sách “The Aquarium: An Unveiling of the Wonders of the Deep Sea”[12]. Ở các nước như Mỹ, Pháp, Anh, Đức, Bỉ, Hà Lan, Canada, Nhật, Singapore, HongKong, Thái Lan,…người ta đã thành lập những viện bảo tàng lớn với những bể cá hiện đại, có thể chứa tới 500.000 lít nước, với vài trăm loài cá khác nhau. Ở Pháp, có tới 8 triệu gia đình nuôi cá cảnh, số bể cá kiểng được bán ra hàng năm lên tới 150.000 – 200.000 cái. Ở Nhật Bản, nghề nuôi cá kiểng được đưa vào sản xuất công nghiệp, được bán ra khắp thế giới và thu nhập hàng triệu đô la mỗi năm[10][14]. Lịch sử cá cảnh nước ngọt tuy nhiên lại bắt nguồn từ khu hệ cá nhiệt đới, chủ yếu ở Nam Mỹ, Đông nam Á, châu Phi… Quyển sách cá cảnh nước ngọt đầu tiên được ghi nhận là của tác giả Chang Chiên Tê viết về cá vàng vào khoảng năm 1618 tại Trung Quốc. Cá cảnh nước ngọt nhiệt đới du nhập vào châu Âu vào khoảng năm 1868 khi Carbonier mang cá đuôi cờ (thiên đường) từ vùng Đông nam Á về Pháp nuôi làm cảnh. Các nước phương Tây sau đó không chỉ nuôi chơi mà còn nghiên cứu sinh sản, lai tạo thành công nhiều loài cá cảnh nước ngọt nhiệt đới như cá ông tiên (cá thần tiên), cá đĩa (cá ngũ sắc thần tiên), xiêm, ngựa vằn... góp phần làm phong phú hóa nguồn cung và đưa cá cảnh nước ngọt trở nên phổ biến như ngày nay [2]. 2.1.2. Tình hình nghiên cứu cá cảnh ở Việt Nam Ở nước ta, nghề nuôi cá thịt cũng như cá cảnh được ghi chép trong cuốn sử học và kinh tế học thời phong kiến (trước 1884). Trước cách mạng tháng Tám, hầu hết các tác giả nghiên cứu là người nước ngoài, chủ yếu là người Pháp. Ngoài ra còn có một số tác giả nghiên cứu là người Anh, người Mỹ, người Trung Quốc. Vào thời kỳ trước 1945, theo nghệ nhân Võ Văn Sanh, ở Sài Gòn đã hình thành ba khu vực bán cá cảnh ở Lưu Xuân Tín, Trần Hòa và Chợ Cũ. Ngày nay chợ cá cảnh Lưu Xuân Tín vẫn còn là chợ đầu mối cá cảnh lớn nhất và lâu đời nhất ở Việt Nam, trong khi khu vực Trần Hòa và Chợ Cũ chỉ còn trong ký ức. Trong quá trình phát triển, TP.HCM có thêm khu chợ cá Nguyễn Thông hình thành vào thập niên 80 và khu chợ cá đường Cộng Hòa hình thành vào cuối thập niên 90. Ngày nay, các cửa hàng cá cảnh đã rải đều trên khắp các tỉnh thành ở Việt Nam, đưa lịch sử cá cảnh nước nhà bước vào thời kỳ phát triển mới...[5][7][13]. Trong những thập niên qua, do tàn dư của chiến tranh, do sự bùng nổ của công nghiệp, do sự lạm phát trong việc sử dụng hóa chất…đã dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng làm cho một số loài cá cảnh quý hiếm đã không còn thấy trong môi trường tự nhiên nữa. Thật là dễ dàng khi bắt cá ra khỏi thiên nhiên hoang dã hơn là nuôi để cho chúng sinh sản, bỡi lẻ mỗi loài đều có những đặc trưng riêng về môi trường sống, tập tính sống, và sự sinh sản hoàn toàn khác nhau. Nhu cầu về cá cảnh trong nước thật là lớn, nhưng sự cung ứng thì có hạn và nguồn tài nguyên thì ngày càng cạn kiệt. Giải pháp chính của vấn đề này là nắm vững về kỹ thuật nuôi và cho sinh sản nhân tạo [1] [12]. Ngày nay, nhờ những thành tựu của khoa học nghề cá, số lượng loài cá nuôi ngày một nhiều và đang biến động lớn. Lúc đầu người nuôi, chơi cá cảnh chỉ biết đến các loài cá cảnh nước ngọt, sau đó họ tìm nuôi một số loài cá nước lợ và mặn. Tùy từng đối tượng nuôi mà ta áp dụng những biện pháp kỹ thuật riêng kéo theo đó là vấn đề về hiệu quả kinh tế. Từ đó, việc nghiên cứu những đặc điểm sinh học, sinh sản, thành phần giống loài cá cảnh nước ta đã được phát triển rộng. Bắt đầu từ hai thành phố lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với các tác giả Võ Văn Chi (1993) với cuốn “cá cảnh” đã đưa ra 116 loài cá nước ngọt thuộc 34 họ của 8 bộ khác nhau cùng với đặc điểm sinh học, sinh sản của từng loài cá, Vĩnh Khang với các cuốn “kỹ thuật nuôi cá kiểng” tập I, II (1993) “cá cảnh”(1998), Nguyễn Khoa Diệu Thu và Vũ Thị Tám với cuốn “kỹ thuật nuôi cá cảnh” (2000), TS. Vũ Cẩm Lương với cuốn “ cá cảnh nước ngọt” (2008) và hiện nay với trang web feshviet.com nghiên cứu sâu về mảng cá cảnh[13]. Lịch sử cá cảnh ở Huế từ thời kì thập niên 50 trở lại đây. Thời kỳ thập niên 50 chỉ có hai loài cá chủ lực là lia thia đá và lia thia tàu (theo cách gọi thời bấy giờ), các loài cá khác như cá chép, bảy màu cũng phổ biến. Cá cảnh mua bán được gói bằng lá môn và buộc bằng dây lạt, do vậy người bán buổi chiều còn phải đi cắt lá môn để chuẩn bị cho buổi bán hôm sau. Nguồn cá nhập lúc bấy giờ chủ yếu từ Hongkong, do người Hoa đưa về. Vào năm 1960, ngoài cá đá, bảy màu, hồng kiếm… còn có tứ vân, hồng nhung, ông tiên, tai u (tai tượng)…[10][11]. Thức ăn cá cảnh vào đầu thập niên 60 chủ yếu là lăng quăng đỏ (sau gọi là bo bo, moina), lăng quăng đen và một số thức ăn tự chế biến. Đặc điểm giai đoạn này là các loài cá tự nhiên (còn gọi là cá sông) đã xuất hiện khá đa dạng trong nuôi cảnh, có người chơi cá sông tự nhiên, còn được gọi là “cá lạ”, bao gồm các loài: chuột, chạch các loại, bã trầu kim cương…Vào năm 1963 cá heo (sau còn gọi tai tượng phi), cá tai tượng Nam Dương (sau gọi là tai tượng Việt Nam)(1964) được một số người thích chơi cá cảnh mang ra từ Thành phố Hồ Chí Minh làm cho thành phần chủng loại cá cảnh ở Huế thêm phần phong phú hơn. Trong thời kì này người chơi cá cảnh cũng rất ít chỉ có một số người có tiền muốn tìm cho mình một thú chơi bình dị của tuổi già [11]. Thời kỳ đầu thập niên 70 có nhiều kiểu hình cá cảnh mới được nhập nội và được nhập từ các người chơi ở Đà Nẵng ra nên thành phần loài cá cảnh cũng đa dạng hơn so với trước. Người chơi cá cũng nhiều hơn, đặc biệt lúc này đã có sự góp mặt của thanh thiếu niên trong số những người tham gia chơi cá cảnh. Vào năm 1986 đã xuất hiện những bể kính cho cá cảnh, các bể kính được dán bằng xi-măng xung quanh, cho đến năm 1993 thì xuất hiện thêm bể kính nẹp sắt, các bể kính này cũng chỉ được chuyên chở từ Đà Nẵng ra. Năm 1994-1995 đã xuất hiện một số trại cá cảnh với quy mô nhỏ, nguồn cá sản xuất ra cũng rất ít phần lớn được nhập từ các vùng khác tới. Từ những năm 1997 trở lại đây thì cá cảnh đã có sức hấp dẫn rất lớn với sự đa dạng và phong phú với các thành phần giống loài khác nhau, người chơi cá cảnh cũng đã nhiều hơn so với trước báo hiệu một thị trường tiềm năng chơi cá cảnh lớn[13]. Phong trào chơi cá cảnh ở Việt Nam Nếu cây cảnh là thú chơi của nhiều bậc trung niên và tiền bối thì cá cảnh giờ đây đã trở thành thú chơi lành mạnh thu hút từ giới trẻ tuổi đôi mươi đến các lão gia. Mỗi lứa tuổi lại tìm thấy một thể loại cá cảnh cho riêng mình và nơi để thể hiện bản thân qua thú chơi đa dạng này. Các em học sinh có thể bớt tiền quà tự sắm cho mình một bể cá nhỏ, chơi các loại cá chỉ mấy ngàn đồng một đôi. Những công chức thu nhập trung bình thì thích trang trí cho ngôi nhà của mình một bể trồng cây thủy sinh xanh mát. Các đại gia, mỗi người một công trình bể cá với dấu ấn riêng. Người chơi các bể thủy sinh dài “vĩ đại”, từ 2 đến 3 mét, người chơi các bể cá rồng lớn hơn 2 mét. Những nhà có sân vườn có nhu cầu làm đẹp thì lại sắm cho mình một hòn non bộ rộng lớn cho những chú cá cảnh muôn màu muôn vẻ hòa mình với thế giới tự nhiên. Một lý do khác khiến cho việc chơi cá cảnh ngày càng được ưa chuộng là việc chăm sóc cá ngày nay đã đơn giản đi nhiều. Với nhu cầu ngày càng tăng cao của thú chơi đồng thời cũng là công cụ trang trí nội thất này, thị trường cá cảnh ngày nay có hàng trăm loài cá cảnh khác nhau. Thêm vào đó là thị trường thiết bị và phụ kiện đi kèm. Chỉ với khoảng vài trăm ngàn đồng, người chơi đã có một bể kiếng, máy sục khí, máy lọc, vài đồ trang trí dưới nước, bóng đèn… và tất nhiên cả vài chú cá cảnh bơi lượn tung tăng.[9][10][13]. Thị trường cá cảnh không chỉ có cá, mà còn đang lên cơn sốt với phong trào chơi bể thủy sinh. Bể cá thủy sinh được mệnh danh là một “thiên nhiên xanh thu nhỏ” trong nhà. Những phong cảnh mê hồn trong các hồ thủy sinh thường làm cho bất cứ ai khi thưởng ngoạn đều liên tưởng đến hình ảnh thiên nhiên của một khu rừng, một khu vườn ở nơi nào đó. Chính vì thế, người có nhu cầu làm đẹp và làm nội thất trong nhà xanh mát đặc biệt ưa chuộng trang trí loại bể này. Không chỉ là để vui mắt, điểm tô cho không gian mỗi căn phòng, góc làm việc, chơi cá cảnh còn mang đến khoảnh khắc bình yên và thư thái tâm hồn cho mỗi người. Khó có thể kể hết các loại cá đang được giới chơi cá cảnh ưa chuộng và trong mỗi loài cá lại có một đặc điểm riêng, gửi gắm ước vọng của người chơi. Để tạo một bể cá lung linh sắc màu mang sức sống và sự vui mắt là quá trình xây dựng công phu. Bể cá được thắp đèn ban ngày và tắt lúc ban đêm, trong bể gắn máy bơm tạo bọt hoạt động 24 giờ. Bể cá cảnh không thể thiếu các loại rong, rong được chăm sóc bằng phân nền vi sinh và các nguyên liệu khác để không làm ảnh hưởng đến độ trong của nước và sự sống của cá. Toàn bộ cây, cá và nước tạo thành một môi trường sinh thái cộng sinh hoàn chỉnh. Cá cảnh được ví như một đứa trẻ suốt ngày cần được chăm sóc, nâng niu. Người chơi phải chăm cá thường xuyên như thay nước, vệ sinh bể, khám chữa bệnh cho cá vào những ngày thời tiết thất thường. Theo quan niệm phong thủy, bể cá thủy sinh sẽ điều hòa không gian, hướng sinh khí vào không gian sống và làm việc. Làm bạn với cá cảnh là tạo ra sự thích thú, vui tươi cho con người khi tự tay nuôi, chăm sóc chúng. Người chơi cá cảnh rất vui thích khi trải qua từng ngày mong đợi để được nhìn những chú cá cảnh lớn lên hàng ngày đùa vui trong không gian xanh của thủy sinh. Cũng từ thú chơi cá nhân, nhiều câu lạc bộ chơi cá cảnh đã hình thành mà ở đó những người chơi có thể gặp gỡ, trao đổi về niềm đam mê và những kiến thức về nuôi cá cảnh. Hiện nay, đã có nhiều cuộc thi cá cảnh mang tính quốc gia và quốc tế được tổ chức, điều này cho thấy thú chơi này đã trở thành một nét văn hoá trong cuộc sống đời thường. Trong nhịp sống thị trường, người chơi cá cảnh có nhiều phương tiện để tiếp cận thông tin và mua các đồ dùng chuyên dụng trong chơi và nuôi cá. Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, các cửa hàng cung cấp cá cảnh và hướng dẫn kỹ thuật nuôi, chăm sóc cá rất đa dạng. Các địa chỉ này chính là nhịp cầu để đưa cá cảnh gần hơn với đời sống.[12][14][16] Nuôi cá cảnh không chỉ ở mục đích thư giãn mà nó còn là một trong những mặt hàng xuất khẩu đem ngoại tệ về cho đất nước. Đất nước ta nằm một trong ba khu vực có nguồn cá cảnh nổi tiếng trên thế giới (Đông Nam Á, Nam Mỹ và Phi Châu). Với khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, điều kiện tự nhiên thuận lợi, đặc biệt ở khu vực các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Tính riêng khu vực thành phố Hồ Chí Minh, hiện nay doanh thu xuất khẩu cá cảnh của thành phố đạt từ 4 – 5 triệu USD một năm. Con số này thực ra chưa xứng với tiềm năng về xuất khẩu cá cảnh, trong khi doanh số bán lẻ hàng năm trên thế giới là 7 tỉ USD. Trước những yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế, Thành Uỷ - UBND thành phố HCM, một trong những nơi xuất khẩu cá cảnh chủ lực của đất nước đã có chủ trương xây dựng chương trình mục tiêu phát triển hoa, cây kiểng, cá cảnh đến năm 2010. Trên cơ sở đó, thành phố đã và đang triển khai chương trình phát triển cá cảnh một cách toàn diện bằng việc ban hành Quyết định số 4954/QĐ-UBND ngày 26 tháng 9 năm 2005, cho phép thành lập Hội cá cảnh thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, hội cá cảnh thành phố Hồ Chí Minh là tổ chức quần chúng tự nguyện của các cá nhân, tập thể, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nuôi, tiêu thụ và các dịch vụ có liên quan đến cá cảnh nhằm hỗ trợ, tập hợp, giúp đỡ nhau, góp phần phát triển thị trường cá cảnh thành phố theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hội cá cảnh thành phố chịu sự quản lý của Nhà nước và Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Kể từ lúc thành lập đến nay, mặc dù với thời gian rất ngắn nhưng Hội cá cảnh thành phố đã hoạt động một cách rất hiệu quả. Ngoài việc thu hút hội viên sinh hoạt trong một tập thể quần chúng (khoảng 800 hội viên), Hội còn thường xuyên tổ chức những hội thảo chuyên đề về cá cảnh (xử lý nước, kỹ thuật nuôi cá cảnh, ấp trứng, phòng trị bệnh cho cá, xuất nhập khẩu cá…). Qua những hội thảo trên đã góp phần giúp đỡ những hội viên (cả những người mới vào nghề và những người nuôi cá lâu năm) có được những kiến thức hữu ích trong việc nuôi và cải thiện kinh tế hộ gia đình, cũng như phát triển thú vui tao nhã nuôi cá cảnh. Trước kia, khi hội cá cảnh thành phố chưa ra đời, hầu hết người chơi thường tự thu thập thông tin qua sách báo trong và ngoài nước, tự học hỏi trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Giờ đây, họ có thể an tâm hơn vì thông qua những hội thảo này, họ có thể nắm bắt được những thông tin cần thiết cho việc phát triển nghề nuôi của mình. Ngoài việc mời những chuyên gia đầu nghành thuỷ sản tham dự, hội thảo còn tập trung nhiều chuyên gia, nghệ nhân trong lĩnh vực nuôi cá cảnh; những chuyên gia, nghệ nhân này sẽ trực tiếp trả lời, giảng giải, trao đổi ý kiến với hội viên để giúp hội viên có những kiến thức hữu ích sau này[7][9][11][12]. 2.2. Vài nét về điều kiện tự nhiên ở thành phố Huế 2.2.1.Vị trí địa lý Thành phố Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước, trên trục Bắc - Nam của các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển, gần tuyến hành lang Đông - Tây của tuyến đường Xuyên Á. Toạ độ địa lý: 107031’45”-107038' kinh Ðông và 16030'45”-16o24' vĩ Bắc. Thành phố Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước, trên trục Bắc - Nam của các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển, gần tuyến hành lang Đông - Tây của tuyến đường Xuyên Á. Cách Hà Nội 675 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.060 km, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ với các trung tâm kinh tế đang phát triển nhanh như khu khuyến khích phát triển kinh tế - thương mại Chân Mây, Thành phố Đà Nẵng, khu kinh tế mở Chu Lai,.. có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối dễ dàng với Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh, thành khác trong cả nước (nguồn UBND Thành phố Huế). Thành phố Huế nằm ở vị trí có điều kiện thiên nhiên, hệ sinh thái đa dạng, phong phú và diện mạo riêng tạo nên một không gian hấp dẫn, kỳ diệu từ núi Ngự Bình, đồi Thiên An - Vọng Cảnh. Thành phố hội đủ các dạng địa hình: đồi núi, đồng bằng, sông hồ, tạo thành một cảnh quan thiên nhiên-đô thị-văn hoá lý tưởng để tổ chức các loại hình Festival và các hoạt động du lịch thể thao khác nhau. Thành phố Huế là địa bàn lý tưởng gắn kết các tài nguyên văn hoá truyền thống đặc sắc với du lịch mà không một Thành phố, địa danh nào ở nước ta có được và là một trong 5 trung tâm du lịch quốc gia. Huế nằm ở vị trí trung tâm của các di sản văn hoá thế giới của Việt Nam (Hội An, Mỹ Sơn, động Phong Nha-Kẻ Bàng) và gần với các Thành phố cố đô của các nước trong khu vực (nguồn UBND Thành phố Huế). Hình 1: Bản đồ hành chính thành phố Huế( mapshue,2010) (Gồm 27 đơn vị hành chính với 27 phường, có 3 phường mới Hương Long, Thủy Biều, Thủy Xuân được thành lập theo Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 26-03-2010) (nguồn UBND Thành phố Huế). 3.2.Điều kiện tự nhiên: a. Khí hậu Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chuyển tiếp từ á xích đạo đến nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam nước ta. b. Chế độ nhiệt Thành phố Huế có mùa khô nóng và mùa mưa ẩm lạnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm vùng đồng bằng khoảng 24°C - 25°C. + Mùa nóng: từ tháng 5 đến tháng 9, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam nên khô nóng,
Luận văn liên quan