Đề tài Định hướng đầu tư vốn phát triển nông nghiệp huyện Đông Giang giai đoạn 2011- 2015

Trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp là một trong những ngành có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là điểm khởi đầu, là nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư nước ta.Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì đòi hỏi về nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng đa dạng phong phú cả về lượng và chất cũng như về chủng loại (do sự gia tăng dân số, do sự tăng lên của nhu cầu bản thân từng con người). Do vậy, chỉ có một nền nông nghiệp phát triển cao mới có hy vọng đáp ứng được. Ngoài ra nạn đói, nạn ô nhiễm môi trường sinh thái. đang là những vấn đề liên quan trực tiếp đến nông nghiệp nông thôn. và trên thực tế cũng chứng minh rằng, nước nào có nền nông nghiệp phát triển bền vững chắc đều là nước có nền kinh tế phát triển ổn định. Sự phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn cho công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp nông thôn không chỉ là nơi cung cấp lao động, nguyên liệu và dược liệu cho công nghiệp mà còn là nơi tiêu thụ lớn các sản phẩm của công nghiệp. Chính vì thế, phát triển kinh tế nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó càng quan trọng khi nước ta có hơn 80% dân số sống trong khu vực nông thôn và chủ yếu sinh sống bằng nghề nông.Tuy nhiên, để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển thì cần phải có sự đầu tư thoả đáng. Vì đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển, là chìa khoá sự tăng trưởng của từng ngành, từng quốc gia. Hiện nay, vốn đầu tư được tất cả các quốc gia trên Thế giới quan tâm, vấn đề này cũng rất bức xúc đối với quá trình tăng trưởng và phát triển ở nước ta. Do đó,việc đầu tư sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý là rất quan trọng.

doc67 trang | Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1026 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định hướng đầu tư vốn phát triển nông nghiệp huyện Đông Giang giai đoạn 2011- 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU e¶f 1. Lý do chọn đề tài: Trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp là một trong những ngành có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là điểm khởi đầu, là nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư nước ta...Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì đòi hỏi về nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng đa dạng phong phú cả về lượng và chất cũng như về chủng loại (do sự gia tăng dân số, do sự tăng lên của nhu cầu bản thân từng con người). Do vậy, chỉ có một nền nông nghiệp phát triển cao mới có hy vọng đáp ứng được. Ngoài ra nạn đói, nạn ô nhiễm môi trường sinh thái... đang là những vấn đề liên quan trực tiếp đến nông nghiệp nông thôn... và trên thực tế cũng chứng minh rằng, nước nào có nền nông nghiệp phát triển bền vững chắc đều là nước có nền kinh tế phát triển ổn định. Sự phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn cho công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp nông thôn không chỉ là nơi cung cấp lao động, nguyên liệu và dược liệu cho công nghiệp mà còn là nơi tiêu thụ lớn các sản phẩm của công nghiệp. Chính vì thế, phát triển kinh tế nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó càng quan trọng khi nước ta có hơn 80% dân số sống trong khu vực nông thôn và chủ yếu sinh sống bằng nghề nông.Tuy nhiên, để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển thì cần phải có sự đầu tư thoả đáng. Vì đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển, là chìa khoá sự tăng trưởng của từng ngành, từng quốc gia. Hiện nay, vốn đầu tư được tất cả các quốc gia trên Thế giới quan tâm, vấn đề này cũng rất bức xúc đối với quá trình tăng trưởng và phát triển ở nước ta. Do đó,việc đầu tư sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý là rất quan trọng. Đông Giang là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam , sản xuất nông nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế của huyện. Cùng với sự biến đổi của nền kinh tế cả nước, của toàn tỉnh trong những năm đổi mới, sản xuất nông nghiệp của huyện đã có bước phát triển nhiều hơn so với những năm trước đây, đạt được những kết quả đáng khích lệ: Sản xuất lương thực tăng , chăn nuôi dần được phát triển...đã từng bước đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân trên địa bàn huyện. Tuy vậy, sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế như: trồng trọt vẫn trong tình trạng độc canh cây lúa, chăn nuôi vẫn chưa có hướng đi đúng để trở thành một ngành sản xuất chính và các hoạt động dịch vụ nông nghiệp vẫn còn nặng về sản xuất, kinh doanh chưa thực sự thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiểu rõ được điều này, trong thời gian qua, Nhà nước,tỉnh và huyện đã đầu tư khá thoả đáng nhằm đưa nền kinh tế huyện phát triển mạnh hơn nữa trong đó lĩnh vực nông nghiệp cũng được quan tâm đầu tư thoả đáng... nhưng cũng chỉ đạt được phần nào mục tiêu đề ra. Do đó, để nông nghiệp ngày càng phát triển và góp phần quan trọng trong nền kinh tế của huyện trong thời gian tới, huyện cần quan tâm đầu tư hơn nữa đến lĩnh vực này. Đồng thời phải có những biện pháp nhằm huy động các nguồn vốn khác tăng cường nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp huyện Đông Giang. Trong thời gian thực tập tại Phòng Nông nghiệp – Phát triển nông thôn huyện Đông Giang, qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn, em chọn đề tài “Định hướng đầu tư vốn phát triển nông nghiệp huyện Đông Giang giai đoạn 2011- 2015. 2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài: - Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá tình hình thực hiện đầu tư vốn và hiệu quả của quá trình đầu tư vốn trong phát triển nông nghiệp của huyện Đông Giang trong giai đoạn 2006- 2010. - Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư và huy động nguồn vốn váo phát triển nông nghiệp trong giai đoạn đến ( 2011- 2015) - Phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trong phạm vi của ngành nông nghiệp huyện Đông Giang giai đoạn 2006- 2010. 3. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài này chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp thống kê kinh tế, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp , dự báo. Nội dung đề tài gồm có ba chương như sau: CHƯƠNG I. Những vấn đề lý luận chung CHƯƠNG II. Thực trạng đầu tư vốn phát triển nông nghiệp huyện Đông Giang (2005 -2010) CHƯƠNG III. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp Trong thời gian thực hiện đề tài em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị phòng NN - PTNT và thầy Th.s VÕ VĂN GIẢNG đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực tập cũng như hoàn thành bài chuyên đề này .Vì thời gian và kiến thức còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi sai xót ,em mong được sự góp ý của quý thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn. Đà Nẵng, ngày tháng năm SVTH : Ating Thị Biêu NỘI DUNG e¶f Chương 1. Những vấn đề lý luận chung I. Các lý thuyết cơ bản: 1.1.Các khái niệm * Khái niệm chung về đầu tư + Xét trên góc độ tiêu dùng: đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu được mức tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai + Xét trên góc độ tài chính: đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời. * Khái niệm đầu tư phát triển : Trong đầu tư người ta lại chia thành các loại đầu tư cụ thể như sau: + Đầu tư thương mại +Đầu tư tài chính +Đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ vốn ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động của xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm và nâng cao đời sống của người dân trong xã hội. * Khái niệm vốn đầu tư : Trong đầu tư người ta cũng hay đề cập đến một thuật ngữ là vốn đầu tư, đây chính là yếu tố quyết định tính chất quy mô của dự án. + Dưới hình thái tiền tệ: vốn đầu tư là khoản tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ; là tiền tiết kiệm cuả dân và huy động của dân từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì các tiềm lực sẵn có vào tạo ra những tiềm lực mới cho nề kinh tế. +Dưới hình thái vật chất: vốn đầu tư bao gồm các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, các công triình cơ sở hạ tầng, các loại nguyên liêu, vật liệu, các sản phẩm trung gian khác.... Vốn đầu tư là yếu tố không thể thiếu được của các công cuộc đầu tư. Trong nền kinh tế phát triển, vai trò của vôns đầu tư là rất quan trọng, nó góp phần tạo sự phát triển mạnh cho nền kinh tế. Khái niệm hoạt động đầu tư: là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hoá vốn thành các tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất. 1..2 Phân loại vốn đầu tư : Hoạt động đầu tư có thể được chia thành nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích của người nghiên cứu và các nhà quản lý đầu tư. Sau đây là một số cách phân loại chính: - Theo đối tượng đầu tư: + Đầu tư vật chất( đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc thiết bị...) + Đầu tư tài chính - Theo cơ cấu sản xuât: + đầu tư chiều rộng: nhằm mở rộng sản xuất đòi hỏi vốn lớn, có tính chất kỹ thuật phức tạp trong thời gian dài. + Đầu tư chiều sâu: nhằm nâng cao trình độ khoa học công nghệ, khối lượng vốn không lớn và tính chất kỹ thuật không phức tạp, và thời gian không dài... - Theo phân cấp quản lý: + Dự án Nhóm A do thủ tướng quản lý + Dự án nhóm B,C do Bộ hoặc UBND các tỉnh, thành phố quản lý. - Thao nguồn vốn huy động : + Vốn huy động trong nước + Vốn huy động nước ngoài - Theo thời gian: + Đầu tư ngắn hạn + Đầu tư trung hạn + Đầu tư dài hạn - Theo vùng lãnh thổ: phản ánh tình hình đầu tư của từng vùng kinh tế, từng tỉnh. Ngoài các hình thức phân loại trên, còn có các hình thức phân loại khác mà không được nêu trong bài này. Do vậy, tuỳ theo mục đích mà người ta có thể lựa chọn sử từng cách phân loại cho phù hợp. 1..3 Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế: Từ trước tới nay khi nói về đầu tư , không một nhà kinh tế học nào và không một lý thuyết nào lại không nói đến vai trò to lớn của đầu tư đối với nền kinh tế. Có thể nói rằng đầu tư là vấn đề cốt lõi, là động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.3.1 Tác động tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế: Đầu tư tác động mạnh tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế, mức độ tác động cũng như thời gian ảnh hưởng là khác nhau. Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng cấu thành tổng cầu. Bởi vì, đầu tư một mặt tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế, mặt khác nó lại tiêu thụ và sử dụng một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ trong quá trình thực hiện đầu tư. Do vậy, xét trong thời gian ngắn hạn, đầu tư tác động trực tiếp tới tổng cầu theo một tỷ lệ thận ngiã là: mỗi sự thay đổi của đầu tư đầu ảnh hưởng tới sự ổn định của tổng cầu nền kinh tế. Đối với tỏng cung: ta biết rằng, để tiến hành một công cuộc đầu tư đòi hỏi một nguồn lực, một khối lượng vốn lớn, thành quả( hay các sản phẩm,dịch vụ mới của nền kinh tế) của các công cuộc đầu tư đòi hỏi một thời gian khá dài mới có thể phát huy tác dụng. Do vậy, khi các thành quả này phat huy tác dụng làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên. Như vậy, đầu tư có tính chất lâu dài và nó sẽ làm cho đường tổng cung dài hạn của nền kinh tế tăng lên. Qua sự phân tích trên ta thấy rằng, đầu tư ảnh hưởng mạnh tới cả tỏng cung và tổng cầu. Bởi vì, xét về mặt cầu thì đầu tư tiêu thụ một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ cho nền kinh tế nhưng đứng về mặt cung thì nó làm cho sản xuất gia tăng, giá cả giảm, tạo công ăn việc làm và làm tăng thu nhập từ đó kích thích tiêu dùng. Mà sản xuất phát triển chính là nguồn gốc cho sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để cải thiện đời sống con người. Như vậy, đầu tư là nhân tố cho sự tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế. 1.3.2 Ảnh hưởng hai mặt tới sự ổn định nền kinh tế : Khi nghiên cứu về đầu tư ai cũng hiểu rằng đầu tư luôn có một độ trễ nhất định, tức là đầu tư hôm nay, thành quả mai sau. Ngopài ra do đầu tư có ảnh hưởng tới tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế không ăn khớp về thời gian do vậy nó có thể phá vỡ sụa ổn định của một nền kinh tế. Nếu đầu tư tốt nó có thể giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Ví dụ như các nước NICs, do có đầu tư hiệu quả nên từ nghững nứớc nghèo đã trở thành các nước công nghiệp với nền công nghiệp phát triển hiện đại. Giả sử ta tăng cầu trong nước, khi đó làm cho nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước liên quan đén công cuộc đầu tư như máy móc, thiết bị, sức lao động, nguyên vật liệu....tăng theo. Điều đó làm tổng cầu nền kinh tế của các loại hàng hoá này tăng lên, theo quy luật cung cầu của nền kinh tế dẫn đến giá cả của những mặt hàng này cũng tăng lên một cách mạnh mẽ, đến một mức nào đó sẽ dẫn tới lạm phát, với tỷ lệ có thể rất cao. Khi lạm phát tăng lên, giá cả tăng vọt dẫn đến các chi phí đầu vào tăng kéo theo là sản xuất trì trệ, doanh nghiệp phá sản , người lao động thất nghiệp, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và đời sống của các tầng lớp dân cư. Tất cả những điều đó làm cho nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trì trệ và làm giảm tốc độ phát triển của đất nước. Tuy nhiên , nếu các quốc gia có chính sách điều tiết đầu tư đúng đắn và phù hợp thì đó không những là khắc phục được những ảnh hưởng tiêu cực mà còn là động lực cho sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế. 1.3.3 Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế: Như đã trình bày ở phần trên sự tác động của đầu tư tới tổng cung và tổng cầu, sự tác động của đầu tư đối với sự ổn định nền kinh tế, ró răng đầu tư có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng cảu nền kinh tế. Để xem xét cụ thể ta có thể sử dụng hàm Harrod- Domar để minh hoạ mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và vốn đầu tư: i k =---------- g Trong đó: + k là hệ số ICOR + i là vốn đầu tư + g là mức tăng GDP i Tù đó suy ra: g =----------- k Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi thì tốc độ tăng trưởng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư hay nói cách khác đầu tư quyết định tới sự tăng trưởng của nền kinh tế. Đối với mỗi quốc gia khác nhau thì hệ số ICỎ cũng khác nhau, nó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và cơ chế chính sách của nhà nước. Đối với các nước đang phát triển có chỉ số ICOR thấp còn các nước phát triển thì ngược lại. Đồng thời chỉ số ICOR của nhiều ngành kinh tế là khác nhau, trong đó ICOR của ngành nông nghiệp thường là rất thấp, tốc độ tăng trưởng của ngành nông nhiệp cũng không cao. Ngoài ra đầu tư còn làm tăng năg suất lao động , chất lượng sản phẩm, năng lực sản xuất do vậy thay đổi tốc độ phát triển kinh tế. Vì vậy, đối với mỗi quốc gia cần có một chính sách thích hợp để huy động vốn và đầu tư có hiệu quả nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nước mình. 1.3.4 Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế: Một quốc gia được coi là phát triển khi cơ cấu kinh tế đi theo hướng công nghiệp- dịc vụ- nông nghiệp trong đó công nghiệp và dịch vụ chiếm một tỷ lệ cao trong GDP của nước đó . Bởi vì nông nghiệp do có nhiều hạn chế về điều kiện tự nhiên và khả năng sinh học của cây trồng vật nuôi nên chỉ có tốc độ tăng trưởng tối đa tù 5- 6%. Do vậy , khi công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ lệ cao, nó có khả năng đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước đó lên cao độ 9- 10% / năm. Muốn vậy chúng ta phải có chính sách đầu tư thoả đáng. Mỗi quốc gia cần tăng cường tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp và dịc vụ và có nhiều chính sách phát huy hiệu quả đầu tư, có vậy thì mới có thể phát triển được ngành công nghiệp và dịch vụ. Mặt khác, trong nông nghiệp ta cũng nên chú trọng đầu tư nhiều hơn cho chăn nuôi bởi vì chăn nuôi thường có tỷ lệ tăng trưởng mạnh hơn trông trọt. Còn với cơ cấu vùng lãnh thổ quốc gia phát triển thường có cơ cấu kinh tế lãnh thổ cân đối và đồng đều giữa các vùng trong cả nước. Do vậy, bên cạnh việc đầu tư trọng điểm để phát triển thành thị và vùng đông bằng, chúng ta cần có chính sách đầu tư và phát triển kinh tế của vùng núi và vung nông thôn khó khăn để vùa phát triển kinh tế xã hội vừa tạo sự cân băng ổn định trong nước. 1.3.5 Đầu tư góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ: Như chúng ta đã biết, khoa học công nghệ là trung tâm của đời sống kinh tế xã hội hiện đại, một quốc gia chỉ phát triển được khi có một nề khoa học công nghệ tiên tiến và hiện đại. Ở các nước phát triển, họ có mức đầu tư lớn , có quá trình phát triển lâu dài nên trình độ khoa học công nghệ cuat họ hơn hẳn các nước khác trên thế giới. Khi hị áp dụng các thành tựu này làm cho nền kinh tế có mức độ tăng trưởng mạnh mẽ, đời sông scủa người dân ở mức cao. Còn đối với các nước đang phát triển, do công nghệ nghèo nàn lạc hậu lại không cá điều kiện để nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật nên kinh tế phát triển rất thấp, sản xuất kém phat triển và bị phụ thuộc vào các nước công nghiệp. Muốn thoát khỏi tình trạng này thì các nước phải tăng cường đầu tư mạnh và tìm cách thu hút đầu tư bên ngoài vào trong nước. Đầu tư ở đây được hiểu theo nghĩa là thu hút công nghệ hiện đại của nước ngoài phù hợp, đồng thời tổ chức nghiên cứu để phát minh ra các công nghệ mới hiện đại hơn. Quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của các nước này có tành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Có thể khẳng định rằng, đầu tư khoa học công nghệ là một chính sách cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Ngoài một số những vai trò chính yếu trên, đầu tư còn góp phần tăng ngân sách của chính phủ, góp phần đảm bảo ổn định đất nước, mở rộng ảnh hưởng của quốc gia,... Từ những phân tích trên , chúng ta có thể khẳng định rằng đầu tư là chìa khoá cho sự phát triển của mỗi quốc gia và cho toàn thế giới. 1.4 Quản lý đầu tư: Đây là hoạt động có ảnh hưởng rrất mạnh tới kết quả và hiệu quả đầu tư của một đất nước nói chung , của một ngành kinh tế nói riêng. 1.4.1 Khái niệm: Quản lý đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng quá trình đầu tư ( bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư cho đến khi thanh lý tài sản do đầu tư tạo ra) bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội và tổ chức kỹ thuật cùng các biện pháp khác nhằm đạt được kết quả kinh tế xã hội cao trong những điều kiện cụ thể và trên cơ sở vậ dụng sáng tạo những quy luật kinh tế. 1.4.2 Mục tiêu của quản lý đầu tư: được xem xét dưới hai góc độ của nền kinh tế: - Vĩ mô: + Đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển ngành trong từng thời kỳ nhất định + Huy động tối đa và sử dụng hiệu quả nhất ca nguồn lực trong và ngoài nước. + Đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư xây dựng các công trình đúng quy hoạch kiến trúc đã định. - Vi mô: Đó là đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất trong một giai đoạn nhất định. Mục tiêu này được cụ thể trong từng giai đoạn của quá trình đầu tư. Mục tiêu này ở các cơ sở nếu thực hiện tốt sẽ làm cho các công cuộc đầu tư đạt kết quả cao và thúc đẩy cỏ sở đi lên. 1.4.3 Các nguyên tắc - Thống nhất : Thống nhất giữa các lãnh đạo chính trị, kinh tế, kết hợp hài hoà giữa mặt kinh tế và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi ngành kinh tế vừa phải phát triển nhưng mặt khác phải tuân theo định hướng chung của Đảng và nhà nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập . - Tập trung dân chủ: đòi hỏi mỗi ngành kinh tế phải được đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của nhà nước nhưng những định hướng , chiến lược chúng ta phải nhận được sự đóng góp của câp dưới. Bên cạnh hướng phát triển chung thì mỗi ngành kinh tế ở mỗi địa phương có thể tuỳ theo đặc điểm riêng của mình mà có những chính sách phát triển phù hợp. - Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương và theo lãnh thổ: Đòi hỏi tại mỗi địa phương , từng ngành phải phát triển trong tổng thể chung của địa phương đó, đảm bảo sự phát triển toàn diện các ngành kinh tế. - Kết hợp hài hoà giữa các lợi ích: nó đòi hỏi mỗi công cuộc đầu tư khong đáp ứng đơn thuần là lợi ích kinh tế mà còn phải đáp ứng cả lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng. - Tiết kiệm và hiệu quả: đòi hỏi một ngành với vốn đầu tư nhất định, chi phí thấp mà thu được hiệu quả cao nhất. - Phải đảm bảo thực hiện đúng trình tự đầu tư và xây dựng: Quản lý hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự thành công của các công cuộc đầu tư ở mỗi ngành, mỗi địa phương và trong cả nước. 1.5 Kế hoạch hoá đầu tư: Đây vừa là nội dung vừa là công cụ để quản lý hoạt động đầu tư. Công tác kế hoạch hoá đầu tư có tính chất hướng dẫn, định hướng cho việc thực hiện đầu tư sau đó. 1.5.1 Các nguyên tắc: + Kế hoạch hoá đầu tư của ngành phải xuất phát từ yêu cầu chung của đường lối phát triển ngành đó, của cả nền kinh tế và nhu cầu của thị trường trong cũng như ngoài nước. + Phải đảm bảo quy luật khách quan , khoa học và tính hiện thực của các phương án. + Kết hợp tốt về các mặt trong nền kinh tế đó: tạo điều kiện khai thác hết tiềm năng của ngành, để nó phát triển toàn diện hơn. + Kế hoạch hoá ở cấp cao sẽ mang tính định hướng, kế hoạch ở địa phương sẽ cụ thể hoá, thực hiện đường lối đó. Điều này sẽ bảo đảm kế hoạch được thực hiện thống nhất từ trên xuống và không bị chồng chéo. + Phải có độ tin cậy cao và tối ưu. 1.5.2 Trình tự lập kế hoạch đầu tư: Kế hoạch đầu tư ở đây được lập chủ yếu cho ngân sách nhà nước đầu tư vào ngành kinh tế, theo trình tự sau: - Xác định nhu cầu về chủng loại và khối lượng sản phẩm, dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng của kỳ kế hoạch mà ngành kinh tế phải đảm nhiệm. - xác định khả năng đáp ứng nhu cầu ngành đối với các điều kiện hiện có ở đầu kỳ kế hoạch để xem khả năng của ngành đó ra sao. - Xác định các năng lực và dịch vụ mới cần tăng thêm trong kỳ. - tiến hành lập kế hoạch đầu tư để đáp ứng năng lực mới tăng thêm cho kỳ kế hoạch thông qua các dự án đầu tư . Việc lập kế hoạch đầu tư theo dự án lại được tiến hành theo các bước sau đây: + Kế hoạch cho điều tra , khảo sát + Kế hoạch chuẩn bị đầu tư + Kế hoạch chuẩn bị thực hi
Luận văn liên quan