Đề tài Đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển các lĩnh vực văn hoá, thể thao và du lịch, đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối và văn bản quy phạm pháp luật để định hướng cho ngành văn hoá, thể thao và du lịch hoạt động và phát triển, gồm: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Luật Di sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thể dục, thể thao; Luật Du lịch; Pháp lệnh Quảng cáo; Pháp lệnh Thư viện Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới tạo hành lang pháp lý để ngành văn hoá, thể thao hoạt động và phát triển như: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá; Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Thủ tướng Chính phủ đã có: Quyết định số 170/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 về Chính sách ưu đãi hưởng thụ văn hoá; Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg ngày 23/6/2005 phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020; Quyết định số 271/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin cơ sở đến năm 2010; Quyết định số 167/2006/QĐ-TTg ngày 14/7/2006 phê duyệt Đề án “Phát triển hoạt động văn hoá-thông tin vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010”; Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg ngày 28/3/2008 phê duyệt Quy hoạch phát triển Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010. Các đơn vị sự nghiệp ngành văn hóa, thể thao và du lịch hoạt động chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp, trên cơ sở kế hoạch công tác, kế hoạch tài chính thường xuyên hàng năm do cơ quan chủ quản phê duyệt. Những cơ chế, chính sách nêu trên đã tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp phát huy quyền chủ động trong việc sử dụng các nguồn tài chính, cơ sở vật chất, sắp xếp, bố trí nhân lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao và tạo nguồn thu, tự chủ về tài chính như: tổ chức các buổi biểu diễn nghệ thuật, hoạt động thể thao ở các địa bàn khác nhau, tổ chức các dịch vụ phục vụ cho các đối tượng khách tham quan bảo tàng, di tích. Với các hoạt động nêu trên, đã tạo được nguồn thu để phát triển hoạt động và cải thiện đời sống cho cán bộ, viên chức trong đơn vị, cũng như tiết kiệm một phần cho ngân sách. Công tác xã hội hoá bước đầu ở một số lĩnh vực: biểu diễn nghệ thuật, di sản văn hoá, thể dục, thể thao và du lịch đã phát huy được tác dụng tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, thể dục, thể thao trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động sự nghiệp văn hoá, thể thao và du lịch vẫn còn một số tồn tại như: Cơ chế hoạt động bước đầu được đổi mới nhưng chưa thực sự được phát huy tác dụng, trong tư duy và nhận thức của nhiều đơn vị sự nghiệp công lập của ngành vẫn còn mang nặng tính bao cấp, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp, chưa tự chủ trong hoạt động và thích ứng, hoà nhập với sự phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế tuyển dụng còn bất cập, chính sách tiền lương và đãi ngộ đối với cán bộ, viên chức ngành chưa phù hợp, chậm đổi mới nên chưa khuyến khích đối với các tiềm năng nghệ thuật và thể thao, như: việc xếp lương lao động nghệ thuật theo thang, bảng lương chung của chế độ viên chức. Chế độ phụ cấp, bồi dưỡng luyện tập, biểu diễn đối với lao động biểu diễn nghệ thuật và vận động viên, huấn luyện viên còn thấp. Hoạt động văn hoá, thông tin và biểu diễn nghệ thuật thường xuyên phục vụ đột xuất nhiệm vụ chính trị theo yêu cầu của nhà nước, nhưng kinh phí hoạt động không được bổ sung kịp thời nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Nhiều chính sách chưa phù hợp với thực tế như chính sách thuế, thù lao cho diễn viên. Hoạt động gắn với chức năng, nhiệm vụ chính của các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch như: biểu diễn nghệ thuật, thư viện, bảo tàng, chiếu phim, đào tạo nghệ sĩ, diễn viên, vận động viên, tổ chức thi đấu thể thao và phục vụ phát triển trong phong trào thể dục, thể thao là những hoạt động sự nghiệp mang tính đặc thù, định hướng theo mục tiêu phục vụ chính trị, phục vụ xã hội, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần của nhân dân theo đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Những hoạt động này mang lại nguồn thu cho các đơn vị sự nghiệp, được các đơn vị quản lý sử dụng theo cơ chế tự chủ tài chính nhằm giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách và phần nào cải thiện thu nhập của văn nghệ sĩ, vận động viên, huấn luyện viên, viên chức và người lao động tại các đơn vị; bản chất các khoản thu này không nhằm mục đích lợi nhuận như các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế khác. Vì vậy việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần được xem xét lại. Nhiều Trung tâm văn hoá của các tỉnh, thành phố đã được xây dựng có cơ ngơi phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, phần lớn trang thiết bị tại các Trung tâm văn hoá (kể cả cấp huyện, thị xã; phường, xã) sau một thời gian sử dụng đã xuống cấp hoặc lạc hậu; không có kinh phí để sửa chữa, thay thế, nhiều địa điểm hoạt động của một số Trung tâm văn hoá đang và sẽ bị chuyển đổi mục đích sử dụng; nhiều thiết chế văn hoá không được cấp đủ diện tích đất xây dựng trụ sở, khu hoạt động ngoài trời để đáp ứng những yêu cầu hoạt động sự nghiệp hoặc thu hẹp diện tích đất hoạt động của các thiết chế văn hoá, hoán đổi, chuyển vị trí các thiết chế văn hoá này ra xa khu vực trung tâm đô thị, không thuận lợi cho hoạt động, do đó việc thực hiện xã hội hoá đối với các thiết chế văn hoá gặp nhiều khó khăn và khó thực hiện. Công tác đào tạo lĩnh vực nghệ thuật, thể dục, thể thao là đào tạo theo năng khiếu nên quy mô của các trường không lớn. Các trường nghệ thuật đào tạo nghệ thuật đặc thù như: Múa, Xiếc, Sân khấu truyền thống, nhạc cụ dân tộc và thể thao đỉnh cao gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh (thiếu nguồn tuyển) nên khó mở rộng quy mô đào tạo. Cùng với những khó khăn trong công tác tuyển sinh, chi phí cho đào tạo lớn trong khi ngân sách chi cho đào tạo nghệ thuật có hạn, khả năng tự chủ của nhà trường bị hạn chế nên chất lượng đào tạo đặc biệt là đối với các chuyên ngành nghệ thuật như múa, xiếc, sân khấu truyền thống bị ảnh hưởng nhiều. Công tác xã hội hoá đối với các hoạt động văn hoá, thể dục,thể thao tuy có một số tiến bộ nhưng hiệu quả chưa cao do một số chính sách chưa huy động được các nguồn lực xã hội như chính sách về thuế, đất đai, tín dụng chưa thực sự khuyến khích các thành phần trong xã hội tham gia. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế -xã hội, nhu cầu hưởng thụ dịch vụ công của xã hội và người dân ngày càng cao và đa dạng, nhất là nhu cầu về dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa và thể dục thể thao .Nhiều người có khả năng chi trả cao để được hưởng thụ dịch vụ công chất lượng cao theo nhu cầu (nhiều người đã cho con theo học các trường Quốc tế ở trong nước hoặc cho con theo học ở nước ngoài). Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của các tầng lớp nhân dân, Nhà nước đã thực hiện các biện pháp để tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp của các đơn vị công lập, đồng thời mở rộng cho mọi thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tham gia cung cấp; trong đó, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo cung cấp một số dịch vụ cơ bản, thiết yếu đối với xã hội, tập trung vào những lĩnh vực cung cấp dịch vụ công mà xã hội có nhu cầu, nhưng các đơn vị cung cấp dịch vụ công ngoài Nhà nước không cung cấp, hoặc cung cấp không đầy đủ, cung cấp cho những khu vực, vùng miền điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn; cung cấp cho những đối tượng chính sách, người nghèo. Để thực hiện vai trò này, Nhà nước đã tổ chức lại, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ công do Nhà nước thành lập theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực lao động, tài chính, tổ chức bộ máy, đồng thời xây dựng chính sách ưu đãi về tài chính như: thuế, đất, tín dụng, để thu hút các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế khác ngoài Nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ công. Tuy nhiên kết quả vẫn còn hạn chế. Vì vậy, để đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của xã hội và nhân dân về số lượng và chất lượng dịch vụ công, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thì việc đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công nói chung và các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch nói riêng là phù hợp với lộ trình cải cách hành chính nhà nước và điều kiện thực tế của Việt Nam, vì vậy tôi chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch”.

doc100 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2364 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển các lĩnh vực văn hoá, thể thao và du lịch, đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối và văn bản quy phạm pháp luật để định hướng cho ngành văn hoá, thể thao và du lịch hoạt động và phát triển, gồm: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Luật Di sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thể dục, thể thao; Luật Du lịch; Pháp lệnh Quảng cáo; Pháp lệnh Thư viện… Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới tạo hành lang pháp lý để ngành văn hoá, thể thao hoạt động và phát triển như: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá; Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Thủ tướng Chính phủ đã có: Quyết định số 170/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 về Chính sách ưu đãi hưởng thụ văn hoá; Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg ngày 23/6/2005 phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020; Quyết định số 271/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin cơ sở đến năm 2010; Quyết định số 167/2006/QĐ-TTg ngày 14/7/2006 phê duyệt Đề án “Phát triển hoạt động văn hoá-thông tin vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010”; Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg ngày 28/3/2008 phê duyệt Quy hoạch phát triển Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010. Các đơn vị sự nghiệp ngành văn hóa, thể thao và du lịch hoạt động chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp, trên cơ sở kế hoạch công tác, kế hoạch tài chính thường xuyên hàng năm do cơ quan chủ quản phê duyệt. Những cơ chế, chính sách nêu trên đã tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp phát huy quyền chủ động trong việc sử dụng các nguồn tài chính, cơ sở vật chất, sắp xếp, bố trí nhân lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao và tạo nguồn thu, tự chủ về tài chính như: tổ chức các buổi biểu diễn nghệ thuật, hoạt động thể thao ở các địa bàn khác nhau, tổ chức các dịch vụ phục vụ cho các đối tượng khách tham quan bảo tàng, di tích. Với các hoạt động nêu trên, đã tạo được nguồn thu để phát triển hoạt động và cải thiện đời sống cho cán bộ, viên chức trong đơn vị, cũng như tiết kiệm một phần cho ngân sách. Công tác xã hội hoá bước đầu ở một số lĩnh vực: biểu diễn nghệ thuật, di sản văn hoá, thể dục, thể thao và du lịch đã phát huy được tác dụng tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, thể dục, thể thao trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, hoạt động sự nghiệp văn hoá, thể thao và du lịch vẫn còn một số tồn tại như: Cơ chế hoạt động bước đầu được đổi mới nhưng chưa thực sự được phát huy tác dụng, trong tư duy và nhận thức của nhiều đơn vị sự nghiệp công lập của ngành vẫn còn mang nặng tính bao cấp, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp, chưa tự chủ trong hoạt động và thích ứng, hoà nhập với sự phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế tuyển dụng còn bất cập, chính sách tiền lương và đãi ngộ đối với cán bộ, viên chức ngành chưa phù hợp, chậm đổi mới nên chưa khuyến khích đối với các tiềm năng nghệ thuật và thể thao, như: việc xếp lương lao động nghệ thuật theo thang, bảng lương chung của chế độ viên chức. Chế độ phụ cấp, bồi dưỡng luyện tập, biểu diễn đối với lao động biểu diễn nghệ thuật và vận động viên, huấn luyện viên còn thấp. Hoạt động văn hoá, thông tin và biểu diễn nghệ thuật thường xuyên phục vụ đột xuất nhiệm vụ chính trị theo yêu cầu của nhà nước, nhưng kinh phí hoạt động không được bổ sung kịp thời nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Nhiều chính sách chưa phù hợp với thực tế như chính sách thuế, thù lao cho diễn viên. Hoạt động gắn với chức năng, nhiệm vụ chính của các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch như: biểu diễn nghệ thuật, thư viện, bảo tàng, chiếu phim, đào tạo nghệ sĩ, diễn viên, vận động viên, tổ chức thi đấu thể thao và phục vụ phát triển trong phong trào thể dục, thể thao… là những hoạt động sự nghiệp mang tính đặc thù, định hướng theo mục tiêu phục vụ chính trị, phục vụ xã hội, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần của nhân dân theo đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Những hoạt động này mang lại nguồn thu cho các đơn vị sự nghiệp, được các đơn vị quản lý sử dụng theo cơ chế tự chủ tài chính nhằm giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách và phần nào cải thiện thu nhập của văn nghệ sĩ, vận động viên, huấn luyện viên, viên chức và người lao động tại các đơn vị; bản chất các khoản thu này không nhằm mục đích lợi nhuận như các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế khác. Vì vậy việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần được xem xét lại. Nhiều Trung tâm văn hoá của các tỉnh, thành phố đã được xây dựng có cơ ngơi phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, phần lớn trang thiết bị tại các Trung tâm văn hoá (kể cả cấp huyện, thị xã; phường, xã) sau một thời gian sử dụng đã xuống cấp hoặc lạc hậu; không có kinh phí để sửa chữa, thay thế, nhiều địa điểm hoạt động của một số Trung tâm văn hoá đang và sẽ bị chuyển đổi mục đích sử dụng; nhiều thiết chế văn hoá không được cấp đủ diện tích đất xây dựng trụ sở, khu hoạt động ngoài trời để đáp ứng những yêu cầu hoạt động sự nghiệp hoặc thu hẹp diện tích đất hoạt động của các thiết chế văn hoá, hoán đổi, chuyển vị trí các thiết chế văn hoá này ra xa khu vực trung tâm đô thị, không thuận lợi cho hoạt động, do đó việc thực hiện xã hội hoá đối với các thiết chế văn hoá gặp nhiều khó khăn và khó thực hiện. Công tác đào tạo lĩnh vực nghệ thuật, thể dục, thể thao là đào tạo theo năng khiếu nên quy mô của các trường không lớn. Các trường nghệ thuật đào tạo nghệ thuật đặc thù như: Múa, Xiếc, Sân khấu truyền thống, nhạc cụ dân tộc và thể thao đỉnh cao gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh (thiếu nguồn tuyển) nên khó mở rộng quy mô đào tạo. Cùng với những khó khăn trong công tác tuyển sinh, chi phí cho đào tạo lớn trong khi ngân sách chi cho đào tạo nghệ thuật có hạn, khả năng tự chủ của nhà trường bị hạn chế nên chất lượng đào tạo đặc biệt là đối với các chuyên ngành nghệ thuật như múa, xiếc, sân khấu truyền thống bị ảnh hưởng nhiều. Công tác xã hội hoá đối với các hoạt động văn hoá, thể dục,thể thao tuy có một số tiến bộ nhưng hiệu quả chưa cao do một số chính sách chưa huy động được các nguồn lực xã hội như chính sách về thuế, đất đai, tín dụng chưa thực sự khuyến khích các thành phần trong xã hội tham gia. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế -xã hội, nhu cầu hưởng thụ dịch vụ công của xã hội và người dân ngày càng cao và đa dạng, nhất là nhu cầu về dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa và thể dục thể thao ....Nhiều người có khả năng chi trả cao để được hưởng thụ dịch vụ công chất lượng cao theo nhu cầu (nhiều người đã cho con theo học các trường Quốc tế ở trong nước hoặc cho con theo học ở nước ngoài). Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của các tầng lớp nhân dân, Nhà nước đã thực hiện các biện pháp để tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp của các đơn vị công lập, đồng thời mở rộng cho mọi thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tham gia cung cấp; trong đó, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo cung cấp một số dịch vụ cơ bản, thiết yếu đối với xã hội, tập trung vào những lĩnh vực cung cấp dịch vụ công mà xã hội có nhu cầu, nhưng các đơn vị cung cấp dịch vụ công ngoài Nhà nước không cung cấp, hoặc cung cấp không đầy đủ, cung cấp cho những khu vực, vùng miền điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn; cung cấp cho những đối tượng chính sách, người nghèo. Để thực hiện vai trò này, Nhà nước đã tổ chức lại, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ công do Nhà nước thành lập theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực lao động, tài chính, tổ chức bộ máy,…đồng thời xây dựng chính sách ưu đãi về tài chính như: thuế, đất, tín dụng,… để thu hút các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế khác ngoài Nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ công. Tuy nhiên kết quả vẫn còn hạn chế. Vì vậy, để đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của xã hội và nhân dân về số lượng và chất lượng dịch vụ công, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thì việc đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công nói chung và các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch nói riêng là phù hợp với lộ trình cải cách hành chính nhà nước và điều kiện thực tế của Việt Nam, vì vậy tôi chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch”. 2. Mục đích của luận văn Luận văn nghiên cứu thực trạng cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch, trên cơ sở đó nhằm nghiên cứu các giải pháp, hoàn thiện, đổi mới cơ chế hoạt động để các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ phát triển, phát huy vai trò của mình, ngày càng đáp ứng nhu cầu xã hội. Tạo ra hạt nhân thí điểm về đổi mới cơ chế hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp công lập để nhân rộng trong cả nước, không chỉ dừng lại áp dụng đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch, trong đó đi sâu vào đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Hoạt động quản lý nhà nước đối với cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Phạm vi của đề tài: Nội dung của đề tài đặt ra rất lớn, với nhiều nội dung xuyên suốt có liên quan tác động lẫn nhau như: đổi mới cơ chế về tài chính, về cơ chế tuyển dụng, đào tạo cán bộ, viên chức, tổ chức bộ máy, cơ chế giao nhiệm vụ, phân công, phân cấp nhiệm vụ… và liên quan đến tất cả các đơn vị sự nghiệp công lập trong cả nước, nhưng trong điều kiện và thời gian có hạn nên Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu để đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới cơ chế hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Nghiên cứu tài liệu liên quan đến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chiến lược phát triển ngành văn hóa, thể thao và du lịch và về cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp nói chung và các đơn vị sự nghiệp công lập nói riêng. Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến lý luận về cơ chế hoạt động. Những chiến lược phát triển về đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Dựa vào những kiến thức khoa học về nhà nước và pháp luật, về quản lý nhà nước, quản lý hành chính nhà nước, quản lý nhà nước về kinh tế… đã được nghiên cứu, học tập tại Học viện Hành chính Quốc gia. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn, trước hết là phương pháp duy vật biện chứng. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp phân tích logic. - Phương pháp chuyên gia tư vấn. - Phương pháp điều tra xã hội học. - Phương pháp thống kê, phân tích số liệu 5. Đóng góp của luận văn Luận văn sẽ đóng góp một phần trong căn cứ để xây dựng cơ chế mới cho hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, để từ đó tăng cường giao quyền tự chủ đi đôi với việc tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế, tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu về quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu xã hội và để hoàn thành nhiệm vụ được giao của đơn vị sự nghiệp công lập trước cơ quan quản lý nhà nước cấp trên và trước pháp luật, đồng thời là cơ sở áp dụng cho các đơn vị hoạt động sự nghiệp trong cả nước. Đây là lần đầu tiên một luận văn Cao học chuyên ngành Quản lý Hành chính công đưa ra những kiến nghị sát với thực tế, phù hợp với định hướng của Đảng và chính sách của Nhà nước về cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. 6. Kết cấu luận văn Tên luận văn: “Đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch”. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung luận văn gồm 03 chương: Chương I: Lý luận cơ bản và kinh nghiệm quốc tế về đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Chương II: Thực trạng cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chương III: Các giải pháp nhằm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chương 1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 1.1 Lý luận chung về đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập 1.1.1 Khái niệm về cơ chế, cơ chế hoạt động Cơ chế là cách thức tổ chức nội bộ và quy luật vận hành, biến hoá của một hiện tượng. Cơ chế (mechanism) là khái niệm lúc ban đầu được dùng trong kỹ thuật để chỉ nguyên tắc vận hành của một loại máy móc nào đó. Về sau, khái niệm cơ chế được áp dụng vào lĩnh vực xã hội, như: cơ chế dân chủ, cơ chế bầu cử, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động... Trong lĩnh vực xã hội, cơ chế được hiểu là phương thức liên hệ giữa các bộ phận, các yếu tố cấu thành hệ thống và nguyên tắc vận hành của hệ thống đó trong quá trình đi tới một mục tiêu nhất định. 1.1.2 Khái niệm về đổi mới: “thay đổi hoặc làm cho thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước” (Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hoá - Thông tin, H. 1998, trang 657). 1.1.3 Khái niệm về đổi mới cơ chế hoạt động: là thay đổi hoặc làm cho cơ chế hoạt động hoặc cơ chế vận hành của một đối tượng nào đó (ví dụ như một cỗ máy, một doanh nghiệp, một tổ chức, ...) thay đổi tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước. 1.1.4 Khái niệm về đơn vị sự nghiệp công lập Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. 1.1.5 Dịch vụ sự nghiệp công Là loại dịch vụ phục vụ quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phục vụ sự phát triển kinh tế-xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao…) do Nhà nước tổ chức cung cấp cho nhân dân và cộng đồng xã hội dưới các hình thức: Nhà nước thành lập các đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công thuộc sở hữu nhà nước, kinh phí hoạt động của các đơn vị này do nhà nước đảm bảo, một phần kinh phí do đối tượng thụ hưởng dịch vụ sự nghiệp công đóng góp (như học phí…) theo quy định của Nhà nước. Hình thức nữa là Nhà nước tạo điều kiện, ban hành các chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư để cho các thành viên kinh tế khác trong xã hội tham gia cung cấp dịch vụ sự nghiệp công. Đặc điểm hoạt động của đơn vị sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường: Hoạt động công ích và dịch vụ công cộng: Trong kinh tế học người ta phân biệt 2 loại hàng hóa: hàng hóa cá nhân (private goods) và hàng hóa công cộng (public goods). Theo định nghĩa chung nhất đã xác định trong một cuốn từ điển kinh tế có uy tín ở Anh thì “hàng hóa công cộng là một hàng hóa hay dịch vụ không thể định giá một cách chính xác được và do vậy mà tư nhân không thể cung cấp một cách có hiệu quả”. Hàng hóa công cộng có 3 đặc tính: tính không kình địch trong tiêu dùng (nonrivalness in consumtion); tính không ngăn cản; tính không vứt bỏ được. Tính không kình địch trong tiêu dùng của một hàng hóa có nghĩa là hàng hóa đó một khi đã được cung ứng cho một người này thì có thể được cung cấp cho những người khác mà không phải chi phí thêm. Tính không ngăn cản có nghĩa là không thể ngăn cản một người, dù họ không trả tiền, được hưởng hàng hóa công cộng đó. Tính không vứt bỏ được có nghĩa là một người không thể từ chối không tiêu dùng một hàng hóa công cộng ngay cả khi người đó không mong muốn như vậy. Ví dụ như trong ngành văn hóa, thể thao và du lịch thì đó là sách, báo, tạp chí, phim ảnh, biểu diễn văn hóa nghệ thuật,…bảo tàng phục vụ chính trị, giáo dục của Đảng cầm quyền. Vì lý do lợi nhuận mà trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tư nhân ít quan tâm tới sản xuất các hàng hóa công cộng. Nhưng hàng hóa công cộng lại cần thiết phải được sản xuất vì sự phát triển chung của nền kinh tế. Nghĩa là, sự phát triển của nền kinh tế-xã hội không thể phát triển được nếu thiếu những hàng hóa công cộng. Lý luận chung về quản lý nhà nước về kinh tế đã luận chứng rằng nhà nước có trách nhiệm tổ chức việc cung cấp các hàng hóa, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế và cho xã hội bằng những phương thức khác nhau. Nói chung, phần lớn sản xuất các hàng hóa, dịch vụ công cộng là ít mang lợi nhuận vì những lý do đã giải thích trên. Vì vậy mà Nhà nước phải tổ chức ra các đơn vị của mình để cung cấp những hàng hóa, dịch vụ công cộng mà các đơn vị tư nhân không muốn hoặc không thể làm, đó là các đơn vị sự nghiệp công. Liên quan tới hàng hoá công cộng còn có một loại hàng hoá đặc biệt mà trong kinh tế học người ta gọi là hàng hóa khuyến dụng (merit goods). Theo định nghĩa của kinh tế học “hàng hóa khuyến dụng là những hàng hóa mà xã hội nghĩ rằng người dân nên tiêu dùng hoặc chấp nhận, cho dù thu nhập của họ ở mức nào đi nữa”. Nghĩa là xã hội (mà Nhà nước là đại diện) phải quan tâm tới những hàng hóa mà xã hội có trách nhiệm phải lo lắng, quan tâm sao cho mọi người dân trong xã hội, bất kể giàu hay nghèo, đều phải được tiêu dùng hay hưởng thụ nhằm tạo nên những tiềm năng, tiềm lực cho sự phát triển kinh tế -xã hội lâu bền và nhanh chóng. Các sản phẩm về văn hóa, thể dục thể thao, …thuộc vào loại hàng hóa đó. Trong nền kinh tế thị trường tự do, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Các cá nhân người tiêu dùng thì lựa chọn hàng hóa tùy thuộc vào thu nhập của mình. Kết quả là nhu cầu của xã hội về một sự đảm bảo tiêu dùng của mọi người dân đối với những hàng hóa khuyến dụng có thể không được thỏa mãn đầy đủ. Vì vậy mà Nhà nước phải có biện pháp tổ chức việc sản xuất và cung ứng cho tiêu dùng trong xã hội những hàng hóa khuyến dụng. Có những hàng hóa khuyến dụng vì lý do lợi nhuận mà các đơn vị tư nhân không muốn làm. Và đồng thời, cũng có những hàng hóa khuyến dụng mà do nguồn thu nhập hạn chế của mình người tiêu dùng chưa thể chi phí để mua chúng. Có thể thấy điều đó qua thực trạng nghèo nàn về những sản phẩm văn hóa (như sách, phim ảnh,…) và sự trống vắng người xem ở các rạp chiếu bóng, rạp hát, bảo tàng,… thời gian qua ở nước ta. Khi nói về hàng hóa khuyến dụng thì cũng cần nói cả về loại hàng hóa không khuyến dụng. Nghĩa là loại hàng hóa mà xã hội cho rằng người dân không nên tiêu dùng hoặc tiếp nhận, cho dù thu nhập của họ ở mức nào đi nữa. Trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch đó là loại sách, báo, tranh, ảnh, video “đen” độc hại, có tác dụng tiêu cực đối với việc giáo dục đạo đức tinh thần của mọi người dân trong xã hội, phá hoại truyền thống tốt đẹp của dân tộc, gieo rắc lối sống xa lạ, ngược với thuần phong mỹ tục dẫn đến những tệ nạn mà xã hội phải tốn nhiều chi phí để khắc phục. Đối với loại hàng hóa không khuyến dụng này, Nhà nước, một mặt áp dụng các biện pháp quản lý hành chính (ngăn cấm), mặt khác, và đây là mặt quan trọng hơn, chủ yếu hơn, là tổ chức và định hướng nhu cầu và sự tiêu dùng của mọi người trong xã hội bằng những sản phẩm văn hóa có chất lượng cao. Có giá trị thẩm mỹ, giá trị văn hóa cao, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là một lý do quan trọng khác