Chương 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1.1 Tình hình thế giới
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chống của cách mạng khoa học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh:
- Nhật – Tây Âu đã trở thành hai trung tâm lớn của thế giới.
+ Hệ thống xã hội chủ nghĩa mở rộng phạm vi.
+ Tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định.
+ Đông Nam Á cũng có những chuyển biến.
1973 khủng hoảng năng lượng.
Sau 1975 Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á.
Khối quân sự SeaTo tan rã.
2/1976 cả nước ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á mở ra cục diện hòa bình và hợp tác trong khu vực.
20 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 688 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đường lối đối ngoại từ năm 1975 đến năm 1986, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
Đề tài: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TỪ NĂM 1975 ĐẾN NĂM 1986
Chương 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
Tình hình thế giới
Từ thập niên 70 của thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chống của cách mạng khoa học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh:
Nhật – Tây Âu đã trở thành hai trung tâm lớn của thế giới.
+ Hệ thống xã hội chủ nghĩa mở rộng phạm vi.
+ Tình hình kinh tế - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định.
+ Đông Nam Á cũng có những chuyển biến.
§ 1973 khủng hoảng năng lượng.
§ Sau 1975 Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á.
§ Khối quân sự SeaTo tan rã.
§ 2/1976 cả nước ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á mở ra cục diện hòa bình và hợp tác trong khu vực.
2.2 Tình hình trong nước
- Thuận lợi:
+ Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Việt Nam hòa bình thống nhất.
+ Cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và đạt được một số thành tựa quan trọng.
- Khó khăn:
+ Vừa phải khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, vừa phải đối phó với chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
+ Các thế lực thù địch chống phá cách mạng.
Tư tưởng chủ quan nóng vội muốn tiến nhanh đến chủ nghĩa xã hội nên gây khó khăn về kinh tế xã hội.
Ø Thuận lợi và khó khăn nó ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, đường lối đối ngoại của Đảng.
CHƯƠNG II: ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG
2.1. Nội dung đường lối đối ngoại của Đảng qua 2 đại hội
2.1.1. Nội dung đại hội IV
Đại hội lần thứ 4 của Đảng (tháng 12-1976) xác định nhiệm vụ đối ngoại trong giai đoạn mới là phải: “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội nước ta”.
Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào-Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi .
Từ giữa năm 1978, Đảng đã điều chỉnh 1 số chủ trương chính sách đối ngoại như: chú trọng củng cố, tăng cường hợp tác về mọi mặt với Liên Xô-coi quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; nhấn mạnh yêu cầu ra sức bảo vệ mối quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào trong bối cảnh vấn đề Campuchia đang diễn biến phức tạp; chủ trương góp phần xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, tự do, trung lập và ổn định; đề ra yêu cầu mở rộng kinh tế đối ngoại.
2.1.2. Nội dung của đại hội V
Đại hội lầm thứ V của Đảng xác định: công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực trong đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của các thế lực hiếu chiến mưu toan chống phá cách mạng nước ta.
Về quan hệ với các nước, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô là nguyên tắc, là chiến lược và luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam; xác định quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào- Campuchia có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc; kêu gọi các nước ASEAN hãy cùng các nước Đông Dương đối thoại và thương lượng để giải quyết các trở ngại và ổn định; chủ trương khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc trên các cơ sở nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; chủ trương thiết lập mở rộng quan hệ bình thường về mặt nhà nước, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị.
Thực tế cho thấy, ưu điểm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1975-1986 là xây dựng hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; củng cố và tăng cường hợp tác với Lào và Campuchia; mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước không liên kết và các nước đang phát triển; đấu tranh với sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch .
2.2. Mối quan hệ của Việt Nam với các nước
2.2.1. Quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng , Việt Nam thống nhất đất nước và đi vào xây dựng trong hòa bình, Liên Xô tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam về nhiều mặt trong khôi phục, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ trương đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô như “ hòn đá tảng của chính sách đối ngoại” trong đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước Việt Nam . Việt Nam đã tích cực, chủ động tăng cường quan hệ với Liên Xô và đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 9 năm 1975 nhân dịp tổng Bí thư Lê Duẩn thăm chính thức Liên Xô, hai bên đã kí 1 số hiệp định hợp tác kinh tế, theo đó Liên Xô giúp Việt Nam xây dựng 1 số cơ sở kinh tế quan trọng như: nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại, nhà máy xi măng Bỉm Sơn...v..v Hợp tác khai thác dầu khí từ đó hình thành liên doanh Việt-Xô. Pê trô 1 trong những mũi nhọn của nền kinh tế Việt Nam. Tổng số viện trợ và cho vay của Liên Xô cho Việt Nam năm 1975-1980 trị giá hơn 2,4 tỷ rúp chuyển đổi. Tháng 5/1977, Việt Nam gia nhập ngân hàng của hội đồng kình tế (SEV). 29/6/1978, tại cuộc họp của hội đồng kinh tế ở Bucaret (Rumani) Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Từ đó, Việt Nam đã gia nhập các hoạt động của SEV. Và có đại diện thường trực tại cơ quan thường trực của SEV ở Matxcova.
Ngày 3 tháng 10/1978, Việt Nam và Liên Xô kí hiệp ước hữu nghị và hợp tác cùng với năm hiệp nghị kèm theo.
Ngày 12/5/1979, hai nước kí kết hiệp nghị liên chính phủ về việc cho phép tàu thuyền hải quân Liên Xô được ra vào,ghé đậu và máy bay Liên Xô được hạ cánh ở Cam Ranh.Theo hiệp định này cảng Cam Ranh là thuộc chủ quyền của Việt Nam; Việt Nam thỏa thuận để Liên Xô tạm thời được sử dụng cảng Cam Ranh cung cấp dịch vụ cho các tàu chiến trong 1 thời gian nhất định vì lợi ích chung của 2 nước; Cam Ranh không phải là 1 căn cứ quân sự.
Việt Nam gia nhập SEV và kí hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô là 1 bước ngoặc và 1 sự phát triển mang ý nghĩa chiến lược trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kì hiện đại, tác động to lớn đến nhiều mối quan hệ quốc tế trọng yếu và truyền thống của Việt Nam.
Sau khi hiệp ước Việt-Xô có hiệu lực, Liên Xô đẩy mạnh hợp tác và giúp đỡ Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế,văn hóa, giáo dục, quân sự, khoa học, kỹ thuật đào tạo hàn vạn cán bộ , công nhân lành nghề và nhận hơn 10 vạn người lao đọng ở Việt Nam sang làm việc ở Liên Xô. Viên trợ của Liên Xô cho Việt Nam trong các năm 1981-1985 tăng gấp đôi so với 5 năm trước, giá trị tương đương hơn 4,5 tỷ đô la Mỹ. Việc trao đổi hàng hóa hàng năm giữa 2 nước phát triển thuận lợi.
Ngày 27 tháng 6 năm 1986 tổng Bí thư Lê Duẫn thăm Liên Xô, Liên Xô quyết định tăng viện trợ kinh tế cho Việt Nam hơn 2 lần so với giai đoạn 1981-1985 trị giá 8,7 tỷ rúp chuyển đổi.
Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ đường lối đối nội, đối ngoại của Liên Xô, đồng thời cùng với Liên Xô phối hợp hành động và tích cực đóng góp vào việc củng cố và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Sau khi Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, nhất là từ khi Viêt Nam trở thành thành viên chính thức của hội đồng tương trợ kinh tế, quan hệ giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu có những bước phát triển mới trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam đã kí 1 loạt hiệp ước hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, theo đó việc hợp tác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học ,kỹ thuật và đã được triển khai thực hiện với những kết quả đáng khích lệ.
2.2.2. Quan hệ với Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là 2 nước láng giềng có chung biên giới đất liền và biển. nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, đã từng đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình đấu tranh cách mạng, giữa 2 nước có nhiều nét tương đồng.
Việt Nam luôn ghi nhớ và biết ơn sâu sắc Đảng, Nhà nước và Nhân dân Trung Quốc về sự ủng hộ mạnh mẽ về chính trị và tinh thần, sự giúp đỡ to lớn và quan trọng về vật chất trong hai cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam và luôn coi trọng việc gìn giữ quan hệ láng giềng hữu nghị hợp tác với Trung Quốc.
Sau khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, cuối tháng 9 năm 1975, Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và nhà nước Việt Nam do Bí Thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam Lê Duẫn dẫn đầu, thăn Trung Quốc để bày tỏ sự biết ơn chân thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc về sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời bàn biện pháp tiếp tục củng cố và quan hệ giữa hai nước. Nhân dịp này, Chính phủ Trung Quốc cam kết thực hiện các khoản viện trợ đã hứa cho Việt Nam trước năm 1975 để xây dựng 111 công trình. Tháng 10 năm 1976, Trung Quốc giúp Việt Nam một số vũ khí phòng thủ. Năm 1977, Trung Quốc cho Việt Nam vay 900.000 tấn lương thực.
Sau khi nổ ra xung đột biên giới Việt – Trung tại khu vực Cao Bằng- Lạng Sơn cuối năm 1976 và tháng 3 năm 1977 giữa lúc tình hình biên giới phía Tây Nam của Việt Nam ngày càng căng thẳng, Việt Nam và Trung Quốc tiến hành đàm phán về vấn đề biên giới Cao Lạng- Quảng Tây. Đoàn Trung Quốc đề nghị bàn biện pháp ngăn ngừa xung đột, giữ quyền trạng trong khi chờ chính phủ hai nước đàm phán giải quyết vấn đề biên giới Trung- Việt. Đoàn Việt Nam đã yêu cầu bàn biện pháp chấp dứt các vụ vi phạm biên giới lịch sử.
Ngày 25 tháng 7 năm 1977, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm thông báo cho đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh rằng Trung Quốc đồng ý hai bên đàm phám về vấn đề biên giới vào hạ tuần tháng 9 năm 1977 ở cấp thứ trưởng ngoại giao. Cuộc đàm phán đã diễn ra ba vòng: hai vòng đầu gồm tám phiên từ ngày 20 tháng Chín đến 2 tháng Mười hai 1977 ở Bắc Kinh: vòng ba từ ngày 13 đến 26 tháng Mười hai ở Hà Nội. các vòng đàm phán đã không đạt kết quả.
Từ ngày 20 đến 25 tháng Mười một năm 1977, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Lê Duẩn thăm Trung Quốc. Trong cuộc hội đàm ở Bắc Kinh, hai bên bất đồng sâu sắc về vấn đề Campuchia.
Tháng tư 1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh. Vấn đề người Hoa ở Việt Nam được Trung Quốc nêu lên. Ngày 12 tháng Năm 1978, Trung Quốc gửi công hàm thông báo Chính phủ Trung Quốc cắt 21 hạng mục công trình viện trợ cho Việt Nam. Ngày 30 tháng Năm 1978, Trung Quốc tuyên bố cắt thêm 51 hạng mục công trình viện trợ và ngày 3 tháng Bảy, tuyên bố cắt toàn bộ viện trợ kinh tế, rút hết chuyên gia về nước. các vụ xung đột liên tiếp diễn ra trên biên giới Trung- Việt.
Tháng tám 1978, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu đàm phán về vấn đề người Hoa. Hai bên tiến hành bảy phiên họp nhưng không đạt kết quả.
Ngày 17 tháng Hai 1979, 60 vạn quân Trung Quốc tiến công vào sâu Ngày 1 tháng Ba 1979, Trung Quốc đề nghị tiến hành đàm phán T trong lãnh thổ Việt Nam tại các tỉnh biên giới Bắc Việt Nam. Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc bước vào giai đoạn căng thẳng.
rung- Việt ở cấp thứ trưởng ngoại giao để khôi phục hòa bình, an ninh ở biên giới, tiến tới giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ, ngày 14 tháng Ba 1979, Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam.
Ngày 18 thánh Tư 1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán ở Hà Nội, tiếp theo là vòng hai tại Bắc Kinh từ ngày 9 tháng Sáu 1979.
Tại cuộc đàm phán này, đoàn Việt Nam đưa ra đề nghị về “ những nguyên tắc và nội dung chủ yếu cho giải pháp về những vấn đề trong quan hệ biên giới Việt Nam – Trung Quốc” đề nghị nêu những biện pháp cấp bách để bảo vệ hòa bình, ổn định ở vùng biên giới hai nước; khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình; giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử do các hiệp ước Trung- Pháp 1887-1895 hoạch định.
Phía Trung Quốc đưa ra lập trường tám điểm, yêu cầu Việt Nam công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, rút quân khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách đối với Lào- Capuchia, nêu lên quan điểm của Trung Quốc về giải quyết vấn đề Campuchia. Cuộc hợp chỉ đạt được việc trao trả người bị bắt. Đầu năm 1980 đàm phán đình chỉ.
Lập trường của Việt Nam trong quan hệ Trung Quốc đã được thể hiện trong báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V, tháng 3 1982; “ kiên trì chính sách hữu nghị và láng giềng tốt với nhân dân Trung Quốc, chúng ta chủ trương quan hệ bình thường với hai nước trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau và giải quyết những vấn đề tranh chấp bằng con đường thương lượng”.
Trong vòng Bảy năm (1980-1987). Việt Nam đã 17 lần gửi công hàm đề nghị nối lại đàm phán Việt- Trung.
Năm 1982, tại các cuộc đàm phán giữa Liên Xô và Trung Quốc ở cấp thứ trưởng ngoại giao nhằm bình thường hóa quan hệ Xô-Trung, Trung Quốc nêu vấn đề quân đội Việt Nam ở Campuchia. Cũng tại diễn đàn này, trong các năm 1983-1984, Trung Quốc luôn nêu ba trở ngại: Liên Xô ở biên giới Xô- Trung, quân Liên xô ở Apganixtan và việc Liên Xô tiếp tục ủng hộ quân đội Việt Nam tại Campuchia, và nhấn mạnh trở ngại thứ ba là quan trọng nhất.
Phối hợp với diễn đàn đàm phán Liên Xô-Trung Quốc, Việt Nam thông báo cho Liên Xô lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia, về quan hệ Việt Nam- Trung Quốc và đề nghị Việt Nam và Trung Quốc trực tiếp đàm phán các vấn đề liên quan đến hai nước.
2.2.3. Quan hệ với Lào và Campuchia
2.2.3.1. Quan hệ với Lào
Trong thời kì 1975,1985, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và Lào phát triển mạnh mẽ. Hai nước đã kí 1 loạt các văn kiện hợp tác toàn diện như: Tuyên bố chung , Hiệp ước hữu nghị và hợp tác. Hiệp ước về hoạch định biên giới và Hiệp định hợp tác kinh tế ngày 18/7/1977. Đây là cột mốc quan trọng nâng cao quan hệ Việt- Lào lên tầm cao mới.
2.2.3.2. Quan hệ với Campuchia
Khác với mối quan hệ Việt -Lào trong quan hệ Viêt Nam- Campuchia sau năm 1975 xuất hiện nhiều yếu tố phức tạp. Ngay sau khi giải phóng Phnom Penh (4.1974), các nhà lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước Campuchia đã phủ nhận sự thật lịch sử, thậm chí đổi trắng thay đen, vu cáo Việt Nam xâm lược, muốn làm cho Camphuchia trở thành “nô lệ của Việt Nam”. Đây là một âm mưu đối ngoại lớn đi song song với kế hoạch diệt chủng bên trong của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Campuchia, làm cho mối quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng và ngay nên tình trạng bất ổn liên tục ở biên giới Tây Nam nước ta .
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc thắng lợi trên bán đảo Đông Dương, chính quyền Campuchia dân chủ do Pol Pot (Pôn Pốt) cầm đầu thực hiện chính sách diệt chủng đối với đồng bào của họ, đồng thời tiến hành những hành động phiêu lưu quân sự chống Việt Nam.
Ngày 1.5.1975 , tập đoàn Pol Pot đã dùng lực lượng quân sự tấn công, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tiến hành giết hại Việt kiều trên đất Campuchia. Sau những sự kiện nghiêm trọng đó, hai bên nhiều lần trao đổi những đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước để thảo luận các vấn đề liên quan đến biên giới. tuy vậy, từ năm 1977, quan hệ giữa hai bên ngày càng xấu đi do những hành động xâm lấn tăng cường của phía Campuchia.
Trung tuần tháng 12.1978, chính quyền Pol Pot tập trung 19 trong tổng số 25 sư đoàn chủ lực tấn công Việt Nam ở khu vực biên giới Tây Nam. Ngày 25.12.1978, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập vào ngày 2.12.1978, do ông Hensomring làm chủ tịch, các lực lượng quân đội Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang của Mặt trận phản công. Ngày 7.1.1979, liên quân tiến vào giải phóng Phnom Penh.
Phản ứng quốc tế đối với việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia không thuận lợi cho Việt Nam. Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu ra tuyên bố ủng hộ. Mỹ, Trung Quốc, các quốc gia ASEAN..v..v.. ra tuyên bố lên án Việt Nam xâm lược, nhiều thế lực thù địch lợi dụng con bài Campuchia, ra sức chống phá và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế, thực hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy yếu và tạo sức ép với Việt Nam.
Theo yêu cầu của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia, Việt Nam để lại một lực lượng quân tình nguyện giúp nhân dân Campuchia ổn định tình hình và xấy dựng lại đất nước. Hai nước đã kí hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác vào 2.1979.
Từ năm 1982, hàng năm một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia được rút về nước.Song các nước ủng hộ chính quyền ba phái ( lực lượng Pol Pot liên kết với phái Hoàng gia và phái Son San thành lập vào tháng 6.1981) vịn vào việc Việt Nam đóng quân tại Campuchia để thực hiện chính sách cấm vận và các hoạt động chống phá Việt Nam. Họ đòi Việt Nam rút quân khỏi Canpuchia như một điều kiên tiên quyết cho một giải pháp về vấn đề chính trị ở Campuchia, cho việc bình thường hóa và cải thiện quan hệ giữa họ và Việt Nam.
Từ đầu năm 1985, tình hình có nhiều chuyển biến mới. xu hướng hòa hoản phát triển mạnh trên thế giới. Các nước lớn liên quan như Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ không muốn cuộc xung đột Camphuchia kéo dài, làm ảnh hưởng đến việc triển khai quan hệ giữa họ với nhau và giữa họ với khu vực Đông Nam Â.5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thành lập nhóm p5 về vấn đề Campuchia. Tuy vậy do tính chất phức tạp nên trải qua nhiều năm. Nhiều cuộc hội nghị, đàm phán, vấn đề Campuchia mới được giải quyết triệt để. Còn trong những năm cuối thập kỷ 1980, đây vẫn là một trong những điểm nóng thu hút sự quan tâm, dính liếu của nhiều nước trên thế giới.
2.2.4. Quan hệ với các nước Đông Nam Á khác
Ngay sau năm 1975 các nước Đông Nam Á có nhiều nguy ngại trong quan hệ với Việt Nam, họ lo sợ Chủ nghĩa Cộng sản đối với đất nước họ , họ lo sợ học thuyết Domino của Mỹ sẽ ứng nghiệm. trong bối cảnh đó tháng 1.1976, Hội nghị ngoại giao lần thứ 12 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đưa ra tuyên ngôn về hoạt động đối ngoại của Việt Nam, trong đó có nhiệm vụ “phấn đấu cho một Đông Nam Á độc lập, hoà bình, trung lập, không có quân đội và căn cứ của đế quốc.
Đến tháng 7.1976, bộ trường ngoại giao Nguyễn Duy Trinh đưa ra chính sách ngoại giao 4 điểm của nước ta đối với các nước Đông Nam Á . Nội dung của tuyên bố này phù hợp với những nguyên tắc của Hiệp ước Bali nên được các nước ASEAN hoan nghênh. Trên cơ sở đó quan hệ Việt Nam với các thành viên ASEAN trước khi phát sinh vấn đề Campuchia đã từng bước cải thiện, chuyễn dần từ quan hệ đối đầu căng thẳng sang đối thoại và xúc tiến bình thường hóa. Việt Nam lần lượt thiết lâp quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN. Bộ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh, sau đó là thủ tướng Phạm Văn Đồng lần lượt đi thăm các nước ASEAN vào 12.1977 và 9.1978.
Tuy nhiên, từ cuối năm 1978, ở Đông Nam Á xuất hiện những luồng gió ngược chiều khi xung đột biên giới Campuchia- Viêt Nam bộc lộ công khai. Khi quân đội Việt Nam vượt qua biên giới tràn qua lãnh thổ Campuchia giải phóng thủ đô Phom Penh theo lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Đoàn kết cứu nước Campuchia ( 12.1978), các nước ASEAN lo ngại chiến tranh có thể lan rộng sang Thái Lan và có thể kéo họ vào cuộc xung đột khu vực, nên quan hệ giữa các nước này và Việt Nam trở nên căng thẳng, đối đầu kéo dài hơn một thập kỷ về vấn đề Campuchia. Đông Nam Á bị phân thành hai nhóm nước, nhóm ba nước Đông Dương và nhóm nước thành viên ASEAN.
2.2.5. Quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa và không liên kết
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược 1975, Việt Nam có uy tín lớn trong các nước dân tộc chủ nghĩa và không liên kết và đã tích cực tham gia hoạt động nhằm góp phần phát huy vai trò tích cực của phong trào không liên kết trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, vì hòa bình, độc lập và chủ quyền của các dân tộc.
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước thế giới thứ ba: Nê Pan, Mianma ( từ Tổng lãnh sự lên đại