Bài nghiên cứu này tranh cãi rằng chi tiêu chính phủ đến mối quan hệ sự dồi dào dầu tác động đến sự
tăng trưởng như thế nào. Sử dụng mộ hình kỹ thuật GMM và VMM vào mô hình của những nước xuất
khẩu dầu, chúng ta nhận thấy rằng sự tăng trưởng nghịch chiều đối với sự biến đổi của giá dầu là
thông qua chính sách tài khóa, nhìn chung doanh thu bất ngờ có thể ngăn trợ sự phát triển thông qua ít
nhất 3 kênh sau : (i)sự giảm của chính sách thuế nội địa, (ii)giảm của nguồn thu xã hội trên nguồn vốn
công mới,(iii)sự tăng chi tiêu chính phủ áp lực kết quả từ thặng dư. Chính sách chính cho những nước
xuất khẩu dầu là chính sách tài khóa thắt chặt, tách sự chi tiêu công từ vòng tròn dầu. đầu tư thặng dư
hoặc là những khoản nợ công nghi hưu đồng ý nguồn thu bất ngờ từ dầu sẽ làm giảm bớt sự cạnh tranh
trong áp lực tìm kiếm và làm nâng cao nguồn thu xã hộ từ revenue booms
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1968 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giá dầu, chính sách chi tiêu chính phủ và tăng trưởng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận
GIÁ DẦU, CHÍNH SÁCH CHI TIÊU
CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG
1
LỜI MỞ ĐẦU
Bài nghiên cứu này tranh cãi rằng chi tiêu chính phủ đến mối quan hệ sự dồi dào dầu tác động đến sự
tăng trưởng như thế nào. Sử dụng mộ hình kỹ thuật GMM và VMM vào mô hình của những nước xuất
khẩu dầu, chúng ta nhận thấy rằng sự tăng trưởng nghịch chiều đối với sự biến đổi của giá dầu là
thông qua chính sách tài khóa, nhìn chung doanh thu bất ngờ có thể ngăn trợ sự phát triển thông qua ít
nhất 3 kênh sau : (i)sự giảm của chính sách thuế nội địa, (ii)giảm của nguồn thu xã hội trên nguồn vốn
công mới,(iii)sự tăng chi tiêu chính phủ áp lực kết quả từ thặng dư. Chính sách chính cho những nước
xuất khẩu dầu là chính sách tài khóa thắt chặt, tách sự chi tiêu công từ vòng tròn dầu. đầu tư thặng dư
hoặc là những khoản nợ công nghi hưu đồng ý nguồn thu bất ngờ từ dầu sẽ làm giảm bớt sự cạnh tranh
trong áp lực tìm kiếm và làm nâng cao nguồn thu xã hộ từ revenue booms.
I. Giới thiệu
Kể từ những năm 1970 chu kì giá dầu là không doán trước được. chính sách tài khóa trong những nên
kinh tế xuất khẩu dầu đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý sự biến động và không chắc chắn của
giá dầu. A notable characteristic của tài chính công trong những dất nước đó thì strong pro-cy,clicality
cả chi tiêu chính phủ và non-oil operactional balance trong mối quan hệ của sự giao động giá dầu (
Villafuerte et al.,2010;E; Amsjasy & Bradley, 2011). Chi tiêu chính phủ thường xuyên đóng vai trò
truyền dẫn chính của những cú sốc giá dầu tới nên kinh tế vĩ mô ( Husain et al,2008;Pieschacon,2009).
Đồng thời, những tài liệu ghi chép rằng những nước xuất khẩu đã có kinh nghiệm, poor growth
performance trong vài thập ki trước đó, hiện tượng đó được xem như là the resource curse. Kể từ khi
buổi hội thảo của Sachs va Warner(1995), a growing body of literature đã xác định vài kênh thông qua
đó sự thiếu hụt có thể xảy ra. Chương này làm nảy sinh câu hỏi tiếp theo: the peculiar nature của chính
sách tài khóa trong các nước xuất khẩu dầu có đóng góp tới sự thiếu hụt của họ.
Nhìn chung chúng ta đẵ nghiên cứu sự phát triển ảnh hưởng đến những loại khác nhau của chi tiêu
chính phủ thông qua sự biến động giá trong khi chi tiêu chính phủ đang kiểm soát sự tác động của sự
biến động giá dầu trong mộ hình của những nước xuất khẩu dầu và nghiên cứu có 2 cơ sở rằng mà bài
nghiên cứu lờ đi trong nội dung của các nước xuất khẩu dầu. trước hết quyết định chính sách chi tiêu
công là không thể tách rời khỏi quyết định tài chính. Do đó sự nhấn mạnh sự tăng trưởng tác động lên
1 phía của ngân sách có thể misleading bởi vi ngân sách giảm tới các khoản cho sự thật rằng mỗi sư
gia tăng trong chi tiêu công sẽ được tính toán bằng cách gia tăng giá hoặc là tích lũy nhiều nợ và vice
versa(Bleaney et al,2001). Thứ hai sự họp thành của sự điều chỉnh chính sách tài khóa tác đông quan
trọng đến sự phát triển dài hạn (Alesina & Perotti 1996). The conventional practice của việc sử dụng
những đo lường trong tổng chi tiêu đã bỏ lỡ những tác động quan trọng của việc phân bổ nguồn thu
công trong số những mục đích sử dụng khác nhau. Điều này có thể nội dung lớn hơn, đặc biệt trong nội
dung của những nền kinh tế có nguồn tài nguyên dồi dào đang phát triển.
Trong bài nghiên cứu này sự tăng trưởng tác động đến tác động đến chính sách tài khóa không chỉ
thông qua kích cỡ chính phủ mà còn thông qua nhiêu hơn 2 kênh: (i) sự chi tiêu công, sự lựa chọn
2
chính sách tới những phần quan trong của những nguồn thuê trong việc sử dụng công cộng khác nhau,
(ii) phương pháp chi tiêu tài chính phản ánh sự mở rộng mà chính phủ mà phụ thuộc vào chính sách tài
khóa trên nguồn tài nguyên tự nhiên. Sự tranh cãi chính chúng ta đã đề cập trước đó rằng sư lưa chon
chính sách tài khóa có the làm cho giá dầu dịch chuyển vào chu kì ở 1 số nước và blessing ở những
nước khác. Bằng cách nói tương tự chính sách chi tiêu chính phủ có thể làm yếu đi nên kinh tế thừa
nhận những cú sốc dầu 1 chiều, do đó tăng trưởng được bảo toàn.
Trước tiên chúng ta đã sử dụng hệ thống môt hình tu động hóa GMM, tận dụng kích cỡ của dữ lieu và
sau đó chúng ta kiem tra kết qua từ mô hình kỹ thuật cointegration và giới hạn những lỗi trong việc áp
dụng mô hình PMG estimator that accounts for panel heterogencity and corrects for potential cross-
sectional dependence. Việc tìm ra những chính sách quan trọng quyết định, (i) làm tăng thuế những
ngành không thuôc về dầu để cải thiện sự tăng trưởng, (ii) sự tăng trưởng chi tiêu vón trong sự tăng
trưởng tích trữ dầu, (iii) áp dụng chính sách đầu tư nghiem ngặc trong suốt booms là cần thiết cho sự
gia tăng 1 cách hiệu quả của những nguon vốn mới, đặc biệt là trong đồng thuận manh me đến qui dinh
tài khóa là can thiết de dam bảo cho sư chi tieu cong tu chu kì giá dầu. chỉ dưới những cam kết thuộc
về chính sách của công ty sẽ đầu tư vào 1 phần trong việc nguồn thu bất ngờ của những quĩ dồi dào or
using the surplus to retire the febt enhace the social gains from revenue booms and alleviate
competitive rent seeking presisures.
Chương này được tổ chức như sau : phần 2 sẽ xác định các giai đoạn bằng cách xem lai sự khác nhau
của chính sách tài khóa của các nuoc xuat khau dau và vai tro của nó trong su phát triển. in section
tjree the e,pirical methodology and data are outlined. Kết quả và sự thảo luận chính sách được trình
bày trong chương IV.
2. Chính sách tài khóa và sự tăng trưởng của những nước xuất khẩu dầu:
Mô hình tăng trưởng nội sinh xuất phát từ mô hình cổ điển mà trong mo hình đó đồng ý những chính
sách công ảnh hưởng sự tăng trưởng lâu dài trong mô hình tăng trưởng cổ điển chuẩn nhung chính sach
tài khóa khác nhau chỉ giải thích những sự quan sát khác nhau trong cấp do thu nhập chứ không phải là
tăng trưởng. buổi hội thảo của Barro 1990 và Barro và Sala-i-martin 1992 phát triển môt hình tăng
trưởng nội sinh trong đó nguồn vốn công spillover những sự ảnh hưởng trên nguồn vốn tư nhân 1 cách
hiệu quả. Những yếu tố bên ngoài chấp nhận nguồn vốn công tác động đến sự phát triển lau dài; sự can
thiệp của những chính sách tài khóa khác nhau giải thích vài sự quan sát khác nhau trong sự tăng
trưởng dài hạn của những nước.
Những nước xuất khẩu dầu chính sách tài khóa phụ thuộc vào sự quản lý chính sách tài khóa cho của
những người cho thuê. Có ít nhất 3 dac điểm của chính sách tài khóa mà có tiềm năng làm chậm sự
tăng trưởng. trước hết sự gia tăng giá dầu có xu hướng làm giảm bớt sự cấp bách cho viec điều chỉnh
chính sách tài khóa và làm giảm khuyến khích cho sự thận trong chính sách từ khóa. Thêm nữa sự
thặng dư ngân sách trong suốt quá trình oil booms là chính sách không phổ biến, vì vay có áp lực cho
sự gia tang chi tieu cong (talvi & Vegh 2005). Chính phủ của những nước xuất khẩu dầu có xu hướng
nhấn manh nhu cầu đến sự hiện đại hóa của nền kinh tế để gặp tư tưởng của công dân của họ và chia sẽ
3
nguồn tài nguyên cho thuê với công cộng. những hậu quả truc tiếp trong viec cam kết của dự án công,
sự mở rông việc làm công cộng và kinh nghiệm của những chính sách tài khóa.
Tornell và Lane (1999) đưa ra một lời giải thích nền kinh tế chính trị: "hiệu ứng voracity". Khi tổ chức
được fractionalized, cơ quan tài chính facelarge áp lực cạnh tranh từ các nhóm mạnh mẽ để một phần
thích hợp của trời để cử tri của họ, tăng chi phí và sự bảo trợ của chính phủ trong thời gian bùng nổ.
Alesina et al. (2008) cung cấp một lý thuyết thay thế đó là có liên quan đến hầu hết các nước đang phát
triển với chính phủ tham nhũng nhưng trách nhiệm. Theo lý thuyết của họ, phiếu quan sát sự bùng nổ
nhưng không thể biết gắn kết của trời chiếm đoạt của các quan chức tham nhũng, Vì vậy, để "chết đói
Leviathan" họ yêu cầu hợp lý hàng hóa công cộng hơn (hoặc thuế thấp hơn), bao gồm cả chuyên
nghiệp chu kỳ tài chính chính sách. Lập luận khác, phù hợp hơn trong bối cảnh không có nền dân chủ,
ủng hộ một "lý thuyết thương mại", trong đó rentier quốc gia "chi tiêu" theo cách của họ để ổn định
chính trị và hòa bình sociatal. Trong mô hình như vậy, chính phủ ở các nước xuất khẩu dầu cung cấp
thêm hàng hóa công cộng và các loại thuế thấp hơn và bù lại, các demend công ít trách nhiệm và quyền
ít chính trị, Điều này sẽ có tác dụng làm tăng chi tiêu công cho sự bảo trợ của chính phủ đặc biệt là
trong thời gian bùng nổ (Robinson et al, 2006; Aslaksen & Torvik, 2006; Schawarz, 2008)Phân luồng
tăng trưởng tăng như vậy trong chi tiêu trong thời gian bùng nổ có thể được truyền qua "Hà Lan bệnh"
cơ chế trong đó trời cho dầu kết quả trong appreciatio tỷ giá thực tế. chi tiêu chính phủ cao hơn đối với
hàng hóa phi thương mại (e, g y tế, giáo dục, và các dịch vụ công cộng) đẩy lên giá của hàng hoá
không thể giao dịch liên quan đến thương mại hàng hoá, dịch chuyển các nguồn lực từ các phi dầu mỏ
có thể giao dịch sectorprovides tác động lan tỏa tích cực đến các lĩnh vực khác, sự gia tăng trong chi
tiêu gorvement trên hàng hóa phi thương mại sẽ có ảnh hưởng trầm cảm trên tăng trưởng dài hạn
(Sachs và Warner, 1995)
Thứ 2 , nhiều nghiên cứu cho rằng sự gia tăng lớn trong vốn công trong sự bùng nổ là không hiệu quả
và thường dẫn đến lợi nhuận rất thấp. Robinson và torvik mô hình các chính trị gia ưu đãi trong trời
phú nguồn tài nguyên nước đang phát triển có để xây dựng con voi trắng, tức là dự án đầu tư với lợi
nhuận xã hội tiêu cực. sau khi các cú sốc dầu mỏ đầu tiên và thứ hai của năm 1970, 85%, 50%, và 46%
of tăng vận may bất ngờ mà tích lũy cho chính phủ của Nigeria, Indonesia và Venezuela, tương ứng,
được chuyển về tăng cường đầu tư công cộng không có tiền chi trả tăng trưởng. Hình ảnh đã thay đổi
một chút trong những năm 2000. theo IMF Trung Đông và báo cáo Trung Á, trong hợp tác các nước
Hội đồng Guft một mình, đầu tư công theo kế hoạch vượt quá đáng kinh ngạc $ 800.000.000.000 trong
năm 2007 - 2008, đưa ra câu hỏi về khả năng hấp thụ hiệu quả đầu tư lớn.
Thứ 3, doanh thu hydrocarbon cắt giảm mục tiêu doanh thu quốc gia và lấn át nguồn doanh thu
không phải từ dầu, đặc biệt là thuế (Bornhost et al 2008). Bên cạnh đó, các nước xk dầu mỏ thường đối
mặt với việc hạn chế cho vay mạnh mẽ trong suốt thời gian giá dầu giảm xuống, làm giảm khả năng
của tài khóa trong việc duy trì mức chi tiêu trước đây và dẫn tới việc cắt giảm những nguồn chi tốn
kém. Những sự cắt giảm này thường có xu hướng làm tăng chi phí xã hội từ việc tái phân phối của cải
và chúng cũng làm giảm tính hiệu quả của nguồn vốn nhà nước.
4
3. Phương pháp thực nghiệm và dữ liệu
Bảng dữ liệu GMM tiếp cận cách sử dụng độ trễ thích hợp của các biến công cụ để tạo ra các
công cụ nội tại. Điều này cho phép sử dụng một cấu trúc độ trễ thích hợp để khai thác các đặc điểm đa
dạng của nguồn dữ liệu. Mặc dù có những thuận lợi như trên, cách tiếp cận này có những điểm thiếu
sót quan trọng. Thứ nhất, nó chỉ cho phép phân chia – không phải độ dốc – sự khác nhau giữa các
nhóm. Theo lập luận của Pesaran, Shin and Smith (1997, 98), giả đinh vê các thông số của độ dốc
không thích hợp khi kích thước thời gian quan sát không phải là khoảng thời gian ngắn. Thứ 2, sự phụ
thuộc vào mặt cắt ngang không được giải quyết. Do đó, học thuyết cho phép một phương pháp ước
lượng thứ hai.
Pesaran, Shin and Smith (97,99) Pooled Mean Group estimator (PMG), bằng việc sử dụng cả
hai nhóm cá nhân và kích thước bảng dữ liệu, có lợi thế là cho phép tính không đồng nhất trong ngắn
hạn nhưng giả định đồng nhất trong dài hạn. Các nhà ước lượng cho phép chúng ta: (i) ước lượng độ
co giãn dài hạn của dữ liệu bảng, (ii) ước lượng tốc độ điều chỉnh về trạng thái cân bằng ở từng quốc
gia, (iii) kiểm tra sự chắc chắn của kết quả dữ liệu GMM, xem xét sự không đồng nhất dữ liệu bảng và
mặt cắt ngang phụ thuộc lẫn nhau.
3.1 Mô hình dữ liệu bảng
Xem xét mô hình dưới đây
Y: tốc độ tăng trưởng GDP thực đầu người
V: vector gồm các biến có lien quan đến giá dầu
F: vector các biến chính sách tài khóa.
H: vector các biến điều khiển phi tài khóa
n1: thời gian quan sát cố định, tác động đến một quốc gia cụ thể
eit: sai số quan sát
Công thức trên cho thấy hiệu ứng ko đổi với một quốc gia cụ thể tương quan với biến phụ
thuộc “lagged” và biến giải thích có thể là biến nội sinh. Điều đó làm tăng OLS (OLS: pp bình phương
5
nhỏ nhất) không thống nhất và và dự toán mối lien quan xu hướng. The Generalized-Mothods of
Moments (GMM) system estimator, phát triển bởi Arellano and Bover (1995), và Blundell and Bond
(1998) đã khắc phục những vấn đề này. No sử dụng sự khác nhau của biến ngoại sinh đúng. (như pp
IV)
Để nắm bắt được ảnh hưởng trực tiếp của giá dầu lên sự tăng trưởng chúng ta xem xét hai biến
giải thích, tốc độ tăng trưởng hàng năm của giá dầu và sự biến động của giá dầu. Yeéu tố thứ hai trên
được đo bằng phương sai có điều kiện của sự thay đổi giá dầu thu được bằng cách sử dụng mô hình
GARCH (1,1). Chúng ta có thể tìm hiểu các đặc điểm kỹ thuật của Lee, Ni and Ratti (1995), sử dụng
dữ liệu hàng tháng về giá dầu từ 01/1957 đến 12/2008.
chính sách tài khóa được biểu hiện bởi vector F. Mục tiêu chính của chúng tôi là nghiên cứu
ảnh hưởng của việc giảm doanh thu được truyền đến nền kinh tế thông qua những thay đổi của chi tiêu
chính phủ hoặc thay đổi trong thặng dư ngân sách nhà nước. Khi các quyết định tài chính của chính
phủ phụ trở nên phụ thuộc lẫn nhau, chúng tôi đưa vào các hạn chế của ngân sách nhà nước được quy
định đầy đủ trong mô hình tăng trưởng.
Các nguồn tài chính phụ thuộc lẫn nhau phát sinh từ những tác động tuyến tính của GBC được
yêu cầu bỏ qua biến tài khóa cho các mục đích dự toán. Bằng sự giải thích, ceteris paribus,
biến này đại diện cho phương thức tài chính khi có một sự thay đổi trong một trong các biến tài tài
khóa
khi nguồn thu của Chính phủ được bỏ qua trong khi tổng chi phí và cân đối ngân sách được
bao gồm trong hồi quy, hệ số của tổng số chi phí này được hiểu là tổng ảnh hưởng của sự gia tăng tổng
chi trừ ảnh hưởng của một sự gia tăng tương ứng trong thu nhập, để nguồn cân đối ngân sách không
thay đổi. Khi đó, hàm ngân sách F được biểu thị
fk là nguồn tài chính, và beta... là vector 1xk-1 của hệ số beta *....
6
Cuối cùng, vector phi tài khóa H chi phối đầu tư cá nhân, độ mở, giáo dục, lạm phát, chính trị
và chế độ.
3.2 Bảng dữ liệu thử nghiệm gốc đơn vị, hội nhập và dự toán PMG
Chúng tôi kiểm tra nguồn gốc của đơn vị trong bảng sử dụng hai phương pháp kiểm ra được
xem như bảng dữ liệu không đồng nhất. Trước tiên, Maddala and Wu (1990) Fisher kiểm tra dựa trên
kiểm định p-value của thử nghiệm gốc đơn vị riêng biệt, giả định sự phụ thuộc cắt ngang giữa các
nhóm. Thứ hai, thử nghiệm Pesaran’s (2007) CIPS là bản cắt ngang tăng thêm của Im, Pesara and
Shin’s (2003) kiểm tra đưa vào sự độc lập của các bản cắt ngang.
Kế đên chúng tôi tiến hành để xác định sự hội tụ giữa các biến. Chúng tôi sử dụng bốn đợt
kiểm tra bảng dữ liệu hội tụ được phát triển bởi Westerlund (2007). Những thử nghiệm chính xác cho
sự phụ thuộc mặt cắt ngang trong các phần tử bảng dữ liệu và cho phép cho tính không đồng nhất ở
mức độ lớn. Hai trong số những kiểm định này là kiểm tra trung bình nhóm trong đó tất cả các hệ số
sai lệch khác nhau giữa các nhóm. Hai kiểm định còn lại được gộp với kiểm định bảng dữ liệu. Các giả
định rằng hệ số kỳ hạn sai lệch không thay đổi giữa các nhóm.
PMG được sử dụng để ước tính mô hình điều chỉnh sai lệch dưới đây:
Y: GDP thực đầu người, y: tốc độ tăng trưởng Y
Si,t-1: độ lệch cân bằng dài hạn tại bất kỳ thời điểm nào của i
Phi: hệ số điều chỉnh sai lệch.
Vecto 0 ghi nhận hệ số dài hạn của lãi suất – không có sự sai khác giữa các nhóm. Những hệ
số này tượng trưng cho độ co giãn dài hạn của thu nhập đầu người với mối liện hệ với mỗi biến trong
Xi,t-1 – là vecto của các biến kỳ vọng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng cả trong ngắn hạn và dài hạn. Kỳ
ngắn hạn phản ứng với biến X được phản ánh bởi veco là vecto của các biến điều khiển kỳ
vọng sẽ tác động sự tăng trưởng chỉ trong ngắn hạn và y’ là hệ số của nó trong ngắn hạn, những tác
động riêng biệt theo nhóm và eit là kỳ sai lệch. Các biến trong X và Z tương tự như trên. Tuy nhiên,
7
phân vùng của các biển trong tác động dài hạn và trong trong ngắn hạn sẽ điều hướng bởi kết quả từ
ước lượng GMM.
3.3 Dữ liệu
Bảng mô tả đầy đủ tất cả các biến và dữ liệu nguồn được mô tả trong bảng A1. Bảng dữ liệu
không cân đối của các quan sát hàng năm bao tất cả hoặc khoảng thời gian từ 1970 -2007. Mẫu bao
gồm 15 nước xuất khẩu dầu lửa: Bahrain, Cameroon, Colombia, Ai Cập, Indonesia, Kuwait, Malaysia,
Mexico, Nigeria, Na Uy, Oman, Syria, UAE and Venezuela. Dữ liệu tài khóa được thu thập từ GFS
của IMF. Trong một số trường hợp, như của Nigeria và Indonesia, dữ liệu được chúng tôi lấy từ các
báo cáo của chính phu nước đó. Đáng chú ý là phương pháo của GFS thay đổi dữ liệu từ 1991 trở về
sau . Do đó vì những mục đích nhất quán, chúng tôi giới hạn dữ liệu liên quan đến tiền mặt và luên
quan đến cấp trung ương. Thêm nữa, những định nghĩa về các biến được liên kết rất cẩn thận. Ví dụ,
định nghĩa chi tiêu hiện tại đối với dữ liệu cũ thì giống nhau đối với các định nghĩa chi phí tiền mặt cho
các dự liệu sau 1990.
Bảng 1a tóm tắt tỷ lệ trung bình của các các loại chi tiêu chính phủ và doanh thu trong GDP
của 15 nước XK. Nó môt tả sự phát triển của tài chính chính phủ (% của GDP) đối với giai đoạn bùng
nổ - suy thoái – bùng nổ của giai đoạn 1970 -2007. Chi tiêu vốn khu vực công và cơ sở hạ tầng bị ảnh
hưởng tiêu cực một cách mãnh mẽ trong những năm 1980 và 1990, nhưng tiếp tục rơi xuống trong suốt
giai đoạn bùng nổ năm 2000
THI HAO
bảng (1a) tóm tắt các cổ phiếu trung bình của các loại khác nhau của chi tiêu chính phủ và các khoản
thu trong GDP cho nhóm của chúng tôi từ 15 nhà nhà xuất khẩu. Nó miêu tả sự phát triển của tài chính
chính phủ (% GDP) để đáp ứng với các chu kỳ bùng nổ phá sản giai đoạn 1970-2007. Chi phí đầu tư
công cộng và cơ sở hạ tầng là những người ảnh hưởng nhiều nhất bất lợi bởi những cú sốc tiêu cực của
năm 1980 và 1990, nhưng tiếp tục giảm tỷ lệ phần trăm của GDP trong sự bùng nổ của những năm
2000. Chi tiêu vốn đã được cắt giảm mạnh từ 9,2% đến 5,6% trong những năm 80 và 90, và giảm hơn
nữa để đạt được chỉ có 4,7% GDP từ năm 2002 đến năm 2007. Theo báo cáo (năm 2007) của IMF
Trung Đông và Trung Á, những nhà xuất khẩu dầu phản ứng thận trọng hơn đến việc tăng giá dầu và
các khoản thu trong sự bùng nổ gần đây, đặc biệt là trong việc xử lý chi phí đầu tư, so với năm 1970.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng những con số trong bảng (1a) không thể hiện đầy đủ bùng nổ chu kỳ đạt
đỉnh vào năm 2008. Sự sụt giảm tỷ trọng đầu tư công trong sự bùng nổ mới nhất, do đó, có thể phản
ánh, chi đầu tư lag.14
8
Bảng 1a. Tài chính của chính phủ (%GDP) và tăng trường (1970-2007)
Khủng hoảng Sau khủng hoảng Khủng hoảng
Các nhân tố 1970 - 1981 1982-2001 2002-2007
Tổng chi tiêu chính phủ 31.4 28 27.9
Chi phí vốn 9.2 5.6 4.7
Chi thường xuyên 20.1 21 23.3
Tiền lương 6.7 7 6.7
Mua hàng hóa dịch vụ 7.6 5.8 3.6
Chi chuyển nhượng thường
xuyên 6 6.5 10
Chi cho chính phủ 15.7 16 14.4
Chi tiêu xã hội 6.5 9 9.9
chi tiêu cơ sở hạ tầng 7.9 5.1 2.8
Dịch vụ công cộng 3.4 3 7.4
Tổng thu ngân sách 30.1 25.3 35.4
Thu thuế 15.2 13.4 14.6
Thu ngoài thuế 14.9 11.9 20.8
Phần thuế trong tổng doanh thu 51% 53% 41%
Tăng trưởng thực tế GDP bình
quân đầu người -0.06% -2.65% -0.20%
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu GFS. Dữ liệu trung bình cho các mẫu của
15 nước xuất khẩu dầu
Ngược lại, chi chuyển nhượng và các chi tiêu xã hội (giáo dục, phúc lợi xã hội, y tế và nhà ở công
cộng) đã tăng đáng kể trong những năm 1980 và những năm 1990 và tiếp tục tăng trong hiện tại với
giá cao. Điều này phản ánh một phần sự thay đổi trong ưu t