Giai cấp là một vấn đề mà trong lịch sử triết học đề cập đến rất nhiều. Có nhiều quan niệm mơ hồ về giai cấp đã xuất hiện trong lịch sử và chủ nghĩa Mác- Lênin đã làm sáng tỏ vấn đề này. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp
20 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3041 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Giai cấp và vấn đề giai cấp đối với Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đặt vấn đề
Giai cấp là một vấn đề mà trong lịch sử triết học đề cập đến rất nhiều. Có nhiều quan niệm mơ hồ về giai cấp đã xuất hiện trong lịch sử và chủ nghĩa Mác- Lênin đã làm sáng tỏ vấn đề này. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp những công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai cấp.
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp
Để thực hiện tốt công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, đưa nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa chúng ta cần làm sáng tỏ vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, đặc biệt là liên hệ những điều đó vào tình hình giai cấp và đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay.
Giai cấp và vấn đề giai cấp đối với Việt Nam hiện nay”
Giải quyết vấn đề
Chương I. Giai cấp và đấu tranh giai cấp :
I. Các quan niệm vê giai cấp và đấu tranh giai cấp trước Mác :
1. Giai cấp :
Trước Mác : Trong tác phẩm của sử gia Chie, Ghido, Minhe cho rằng: “Giai cấp là một tập hợp những người có cùng một chức năng xã hội, cùng một lối sống hoặc mức sống, cùng một địa vị và uy tín xã hội.”
Quan niệm đó chỉ là mơ hồ, không đi vào đặc trưng cơ bản của xã hội. Các lý thuyết đó tránh đụng đến các vấn đề cơ bản đặc biệt là các vấn đề quan hệ sản xuất va tư liệu sản xuất.
2. Quan niệm về đấu tranh giai cấp :
Trong thời kỳ này, đấu tranh giai cấp còn là một khái niệm mơ hồ, cùng với những hoạt động mang tính bộc phát. Các cuộc đấu tranh giai cấp chỉ đơn giản chỉ là cuộc đấu tranh đòi quyền lợi, nhằm những mục đích trước mắt, nhằm giải phóng bản thân khỏi ách áp bức, bóc lột bất công.
II. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp :
1. Giai cấp :
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng, các giai cấp xã hội hình thành một cách khách quan gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. Trong tác phẩm "Sáng kiến vĩ đại", Lê Nin đã đưa ra định nghĩa về giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.’’
2. Đấu tranh giai cấp:
“ Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội có sự phân chia giai cấp.”
Đấu tranh giai cấp thực chất là cuộc đấu tranh giữa những giai cấp mà lợi ích căn bản đối lập nhau.
Đấu tranh giai cấp là một trong lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng. Điều đo được thể hiện trước hết ở chỗ: Thông qua đấu tranh giai cấp sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất già cỗi được giải quyết, bước quá độ từ một chế độ xã hội lỗi thời sàng một chế độ mới cao hơn được thực hiên.
Xét đến cùng, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Song sự phát triển của sản xuất chỉ diễn ra khi quan hệ sản xuất còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời thì mâu thuẫn với lực lượng sản xuất, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã hội thành mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng đại biểu cho phương thức sản xuất mới, với giai cấp bóc lột, thống trị - đại biểu cho những lợi ích gắn liền với quan hệ sản xuất lỗi thời. Mẫu thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp cách mạng và quần chúng bị bóc lột, mà đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội, thay thế quan hệ xã hội cũ bằng quan hệ sản xuất mới, mở ra địa bàn mới cho sản xuất xã hội phát triển. Sản xuất xã hội phát triển, đương nhiên kéo theo sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Từ khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện trên vũ đài lịch sử, việc xã hội nắm lấy quyền sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất đã luôn luôn là một lý tưởng tương lai mà nhiều cá nhân cũng như nhiều môn phái trọn vẹn đã từng phảng phất nhìn thấy ít nhiều lờ mờ ở trước mắt. Nhưng việc chiếm hữu đó chỉ có thể trở thành một khả năng, trở thành một tất yếu lịch sử, một khi mà các điều kiện vật chất để thực hiện việc đó đã có sẵn rồi. Cũng như mọi sự tiến bộ khác của xã hội, việc đó mà có thể thực hiện được, thì không phải là do ở chỗ người ta đã hiểu rằng sự tồn tại của giai cấp là trái với chính nghĩa, trái với bình đẳng,… không phải là do ở chỗ chỉ đơn thuần có ý muốn tiêu diệt các giai cấp ấy, mà là do những điều kiện kinh tế mới nhất định. Tình trạng xã hội phân chia thành một giai cấp bóc lột và một giai cấp bị bóc lột, thành một giai cấp thống trị và một giai cấp bị áp bức là một hậu quả tất nhiên của tình trạng phát triển thấp kém của nền sản xuất trước kia. Chừng nào tổng số sản phẩm do lao động của xã hội làm ra chỉ mới cung cấp được một số gọi là vượt chút ít cái số thật cần thiết để vừa đủ để đảm bảo sự sinh sống của mọi người mà thôi, chừng nào mà lao động vẫn choán hết hay hầu hết thời giờ của đại đa số thành viên trong xã hội, thì tất nhiên xã hội đó phải chia thành gia cấp là điều tất yếu xẩy ra. Khi giai cấp thống trị này, hay một giai cấp thồng trị khác trở thành một sự lỗi thời, một trạng thái cổ hủ thì cần phải có một giai cấp mới tiến bộ hơn, phát triển hơn phù hợp với quan hệ sản xuất mới và diễn ra cuộc đấu tranh giữa những giai cấp này, giai cấp tiến bộ tất yếu sẽ giành thắng lợi và cứ như thế thúc đẩy xã hội phát triển đi lên.
C.Mác và Ph.Ăngghen chứng minh rằng, sản xuất vật chất để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người là hành động lịch sử đầu tiên của con người. Tác động biện chứng giữa cải tiến sản xuất với nhu cầu không ngừng tăng lên là động lực phát triển cơ bản, thường xuyên của tất cả xã hội. Sản xuất vật chất bao giờ cũng phát triển trong một quan hệ sản xuất nhất định. Khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, thì nó trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, dẫn đến những cuộc khủng hoảng phá hoại lực lượng sản xuất,. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, những quan hệ sản xuất lỗi thời không tự động nhường chỗ cho quan hệ sản xuất mới. Chúng được giai cấp thống trị bảo vệ bằng tất cả sức mạnh chính trị, kinh tế và tư tưởng, đặc biệt là bằng bạo lực có tổ chức. Muốn thay đổi quan hệ sản xuất để giải phóng sức sản xuất phải gạt bỏ lực cản lớn lao ấy. Điều đó chỉ có thể thực hiện được qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. Xuất phát từ quan điểm xem sự vận động nội tại của phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội, C.Mác và Ph Ăngghen đã xem đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là thời kỳ cách mạng, như đòn bẩy để thay đổi hình thái kinh tế - xã hội do đó “đấu tranh giai cấp là động lực trực
tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp.”
Trong xã hội có áp bức giai cấp, đấu tranh giai cấp chăng những cải tạo xã hội mà còn có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động. Chỉ qua đấu tranh cho tự do, không cam chịu số phận nô lệ, các giai cấp bị áp bức mới gột sửa được tinh thần nô lê và những tập quán xấu do chế độ người áp bức người sản sinh ra.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh vai trò to lớn của đấu tranh giai cấp chống áp bức bóc lột. Thời cổ đại nếu không có các cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của hàng chục vạn nô lệ và tầng lớp bình dân chống giai cấp chủ nô thì chế độ nô lệ dù đã thối nát cũng không thể sụp đổ. Cuối xã hội phong kiến các phong trào đấu tranh của nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức… do giai cấp tư sản lãnh đạo đã dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII làm sụp đổ chế độ phong kiến, đưa xã hội chuyển sang thời đại tư sản.
Cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử loài người. Nó là pưhơng tiện tất yếu để giải phóng chia giai cấp do giai cấp công nhân tiến hành là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong lịch sử loài người. Nó là phương tiện tất yếu để giải phóng toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, khỏi sử phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy đây là một quá trình đấu tranh rất lâu dài và vô cùng phức tạp. Cuộc đấu tranh giai cấp phát triển tất yếu dẫn đến cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng này thắng lợi trước hết ở những khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, nơi giai cấp công nhân và các lực lượng cách mạng có nhữgn điều kiện khách quan và chủ quan để giành chính quyền.
Sau khi giai cấp công nhân dân lao động giành được chính quyền, đấu tranh giai cấp chưa biến mất mà tiếp tục diễn ra gay go phức tạp trong điều kiện mới.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mục tiêu đấu tranh trực tiếp của gai cấp công nhân đã thay đổi: từ mục tiêu giành chính quyền chuyển sang mục tiêu cơ bản và chủ yếu là củng cố chính quyền của nhân dân lao động xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trọng tâm là xây dựng kinh tế. Giai cấp tư sản đã bị lật đổ, tiến hành cuộc đấu tranh chống cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản.
Điều kiện đấu tranh thay đổi, mục tiêu trực tiếp của các giai cấp thay đổi thì hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. Lênin dã nói: “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước”1
Cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bant lên chủ nghĩa xã hội diên xra trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội văn hoá, tư tưởng. V.I.Lênin cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng lợi triệt để khai giai cấp công nhân lãnh đạo đông đảo quần chúng nhân dân xây dựng thành công phương thức sản xuất mới, bảo đảm chủ nghĩa xã hội tạo ra được năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản. Mục tiêu này chưa được thực hiện thì khả năng phục hồi chủ nghĩa tư bản vẫn còn rất lớn. Các thế lực tư bản quốc tế ra sức ngăn cản giai cấp công nhân đã nắm chính quyền xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bằng nhiều phương tiện và thủ đoạn từ bao vây, cấm vận, can thiệp quân sự đến "diễn biến hoà bình". Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải làm thất bại các thủ đoạn nói trên.
Trong điều kiện đã nắm được chính quyền, giai cấp công nhân phải sử dụng tổng hợp, linh hoạt các hình thức đấu tranh mới, trong đó có đấu tranh bằng bạo lực và bằng hoà bình, bằng giáo dục thuyết phục và bằng hành chính, pháp chế, bằng chính trị, quân sự và bằng kinh tế, bằng cải tạo các quan hệ cũ đã lỗi thời và xây dựng các quan hệ mới đúng quy luật; bằng liên minh giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp lao động và các tầng lớp trung gian khác; bằng “sử dụng” giai cấp tư sản để xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v... Cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội lâu dài, gay go phức tạp như thế nào tuỳ theho điều kiện lịch sử cụ thể. ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũ, các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội, nhất là lợi dụng những sai lầm nghiêm trọng của các đảng cộng sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập lại trật tự tư sản. Hai loại sai lầm nghiêm trọng dễ mắc phải là: .
a. Chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật kinh tế khách quan, trong khi đó lại tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấ, nhất là tuyệt đối hoá một trong những hình thức của đấu tranh giai cấp;
b. Cơ hội hữu khuynh, mơ hồ về đấu tranh giai cấp, mất cảnh giác trước âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội.
Chương II.Dân tộc, quan hệ giai cấp - dân tộc và nhân loại:
I.Các hình thức cộng đồng người trong lịch sử:
A. Thị tộc:
a. Định nghĩa:
Là cộng đồng người có cùng huyết thống, thị tộc là đơn vị sản xuất là hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thuỷ.
b. Một số đặc trưng cơ bản:
Quan hệ huyết thống là quan hệ chủ yếu trong thị tộc, ngoài ra còn có những quan hệ về tín ngưỡng , ngôn ngữ, văn hoá. Mỗi thị tộc có nơi cư trú và vùng săn bắn riêng.
Cở sở tồn tại về kinh tế của thị tộc là quyền sở hữu chung về tư liệu sản xuất và tài sản.
B. Bộ lạc:
a. Định nghĩa:
Là một tập hợp dân cư được hình thành từ nhiều thị tộc va có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân liên kết với nhau trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc.
b. Một số đặc trưng cơ bản:
Đặc trưng của bộ lạc là có cùng ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hoá, tín ngưỡng và cùng chung sống trên vùng lãnh thổ.
Lãnh đạo của bộ lạc là một hội đồng tộc trưởng, trong bộ lạc có một thủ lĩnh tối cao nhưng mọi quyền hành quản lý của bộ lạc đều do hội đồng các tộc trưởng và thủ lĩnh quân sự quyết định.
C. Bộ tộc:
a. Định nghĩa:
Là một cộng đồng dân cư hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên một vùng lãnh thổ nhất định.
b. Một số đặc trưng:
Thời kỳ hình thành của bộ tộc là thời kỳ đánh dấu sự tan dã của xã hội cong xã nguyên thuỷ; sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời thay thế cho sở hữu tập thể.
Sự xuất hiện nhà nước góp phần quan trọng có tác dụng vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy sự thống nhất về kinh tế và văn hoá, mở rộng giao lưu với các bộ tộc.
D.Dân tộc:
a. Định nghĩa:
Dân tộc là cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên kết của tất cả các bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ.
b. Các đặc điểm chung của dân tộc:
- Thứ nhất: cộng đồng về lãnh thổ
- Thứ hai: cộng đồng về kinh tế
- Thứ ba: cộng đồng về ngôn ngữ
- Thứ tư: cộng đòng về văn hoá, tâm lý
II. Quan hệ giai cấp và dân tộc:
Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ thân thiết với nhau. Song nó là phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, giai cấp, dân tộc không thể thay thế được cho nhau.
Trong dân tộc thì có giai cấp và quan hệ giai cấp có vai trò quyết định tới sự hình thành xu hướng phát triển, bản chất xã hội của dân tộc, tính chất quan hệ giữa các dân tộc với nhau.
Trong xã hội luôn có hiện tượng dân tộc này áp bức dân tộc khác. Việc các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa thực chất là do giai cấp tư sản ở các nước này đến đàn áp, áp bức các nước thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên,bóc lột sức lao động của nhân dân bản địa.
Nhân tố giai câp ảnh hưởng một cách cơ bản tới nhân tố dân tộc song nhân tố dân tộc cũng tác động sâu sắc tới giai cấp.
3. Quan hệ giai cấp và nhân loại:
Nhân loại là một khái niệm chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái đất từ hàng triệu năm nay. Giai cấp và nhân loại gắn liền với nhau trong những quan hệ mật thiết và sâu sắc.
Giai cấp nằm trong nhân loại, còn vấn đề giai cấp và vấn đề chung cho cả nhân loại. Đấu tranh giải phóng giai cấp, dân tộc là bộ phận đấu tranh giải phóng nhân loại.
Mâu thuẫn áp bức giai cấp là thường xuyên, mỗi phương thức sản xuất có một giai cấp nắm quyền lãnh đạo. Tuy nhiên sự thống trị xã hội của giai cấp cũng không hoàn toàn cản trở sự phát triển của nhân loại.
Chương III. Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam :
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh giai cấp và quan hệ giai cấp – dân tộc :
Qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn , Hồ Chí Minh đi đến kết luận hết sức cơ bản : ’’Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản’’. Một trong những bài học lớn nhất của cách mạng Việt Nam là bài học về sự kết hợp chặt chẽ nhuẫn nhuyễn đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, giải phóng dân tọc và giải phóng xã hội . đó là điểm cốt lõi của tư tương Hồ Chí Minh.
II. Giai cấp công nhân Việt Nam :
Có thể đưa ra nhận định về giai cấp công nhân Việt Nam như sau: Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn người mà lao động của họ gắn liền với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp hiện đại, thu nhập của họ chủ yếu là làm công ăn lương; là lực lượng sản xuất chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế trí thức vì một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một trong những bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế, nhưng do điều kiện ra đời và hoàn cảnh lịch sử nước ta nên nó còn mang những đặc điểm riêng. Đó là:
Thứ nhất: giai cấp công nhân Việt Nam còn non trẻ, ra đời từ những năm đầu của thế kỷ XX ở một nước nửa thuộc địa phong kiến. Đó là giai cấp thuần nhất về tư tưởng, sớm tập trung về lực lợng, không có tầng lớp công nhân quý tộc, sớm tổ chức được chính Đảng của mình. Giai cấp công nhân Việt Nam đợc kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc, hơn nữa nó lại bị ba tầng áp bức nặng nề nên có tinh thần cách mạng.
Thứ hai: giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ khăng khít, thường xuyên, chặt chẽ với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức.
Thứ ba: giai cấp công nhân Việt Nam sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng tháng Mười Nga của chủ nghĩa Mác- Lênin, không bị chi phối bởi chủ nghĩa cơ hội, sớm gắn bó với phong trào công nhân Quốc tế.
Những đặc điểm trên đây của giai cấp công nhân Việt Nam đã có ảnh hưởng to lớn tới việc thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn của nó. Bởi vì:
Do đặc điểm tập trung, sớm thống nhất cả về tư tưởng, tổ chức, sớm tổ chức được chính Đảng của mình, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin nên nó đã nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tiên phong của dân tộc, đã xây dựng được cương lĩnh chính trị và đường lối cách mạng đúng đắn ngay từ buổi đầu, vì vậy luôn giữ vững vai trò độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Do có quan hệ mật thiết và gắn bó với giai cấp công nhân và tầng lớp trí thức nên giai cấp công nhân Việt Nam sớm tập hợp, đoàn kết và không ngừng phát huy sức mạnh của cả dân tộc trên nền tảng liên minh Công- Nông- Trí thức.
Do gắn bó với phong trào công nhân quốc tế và sớm tiếp thu tư tưởng Mác- lênin nên giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm kết hợp và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, kết hợp được sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Do không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội Quốc tế III nên giai cấp công nhân Việt Nam luôn giữ vững được tinh thần thống nhất về tư tưởng, đoàn kết về tổ chức, vững vàng về chính trị, kiên cường và triệt để trong phong trào đấu tranh cách mạng.
Chính vì những lẽ trên nên giai cấp công nhân Việt Nam thông qua chính Đảng của mình đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành triệt để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đa cả nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử đó đối với dân tộc cũng là sự đóng góp vào phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân toàn thế giới.
Tuy nhiên do sinh ra và trởng thành ở nước nông nghiệp lạc hậu. Bị áp bức bóc lột nặng nề nên giai cấp công nhân Việt Nam còn có những hạn chế như: trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp chưa cao, tác phong, tập quán, thói quen, tâm lý còn ảnh hưởng nặng nề của người sản xuất nhỏ. Hiện nay theo thống kê, số lượng công nhân nước ta có 10,2 triệu trên tổng số 80 tri