Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân và là một bộ phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Phát triển nông nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, nhất là đối với nước ta khi sản xuất nông nghiệp hiện còn đang chiếm 20,9% GDP, thu hút 56,8% lực lượng lao động xã hội và đóng góp hơn 30% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đạt hiệu quả cao và bền vững, việc hoàn thiện và xác định một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế không chỉ là yêu cầu có tính khách quan, mà còn là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 đã chỉ rõ:
CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa [12, tr.1].
Với tinh thần nêu trên, nhiều chính sách mới trong nông nghiệp được triển khai, đã thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, một số nông sản phục vụ xuất khẩu tăng nhanh, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp và tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nhất là đứng trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay, cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước, khu vực đồng bằng sông Cửu Long cũng như của tỉnh An Giang trong thời gian qua nhìn chung chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế của từng vùng nên hiệu quả chuyển dịch chưa cao. Cụ thể là quy mô, địa bàn sản xuất của hầu hết các nông sản hàng hóa chủ lực còn phân tán, phát triển theo chiều rộng là chính, hàm lượng khoa học và công nghệ đưa vào sản phẩm còn ít, dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế yếu.
Châu Thành là một trong 11 huyện, thị của tỉnh An Giang, nằm ở phía Tây sông Hậu, thuộc khu vực tứ giác Long Xuyên; có diện tích tự nhiên là 35.506 ha (trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 86,9%), dân số 176.782 người, với phần lớn người dân sống bằng nghề nông nghiệp, đời sống khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn. Trong những năm qua, kinh tế nông nghiệp của huyện đã có những chuyển biến tích cực, nhiều vùng đất trước đây chưa được khai thác, hoặc khai thác chưa có hiệu quả nay đã được sử dụng tương đối hiệu quả vào các lĩnh vực kinh tế khác nhau. Tuy nhiên, so với tiềm năng và nguồn lực của huyện thì tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp còn thấp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm, chưa hợp lý. Do vậy, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân, đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH của tỉnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong bối cảnh hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang để viết luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
103 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2420 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân và là một bộ phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Phát triển nông nghiệp luôn giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, nhất là đối với nước ta khi sản xuất nông nghiệp hiện còn đang chiếm 20,9% GDP, thu hút 56,8% lực lượng lao động xã hội và đóng góp hơn 30% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, đạt hiệu quả cao và bền vững, việc hoàn thiện và xác định một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý, phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế không chỉ là yêu cầu có tính khách quan, mà còn là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 đã chỉ rõ:
CNH, HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa [12, tr.1].
Với tinh thần nêu trên, nhiều chính sách mới trong nông nghiệp được triển khai, đã thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, một số nông sản phục vụ xuất khẩu tăng nhanh, góp phần nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp và tăng thu nhập cho nông dân. Tuy nhiên, so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nhất là đứng trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay, cơ cấu kinh tế nông nghiệp cả nước, khu vực đồng bằng sông Cửu Long cũng như của tỉnh An Giang trong thời gian qua nhìn chung chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế của từng vùng nên hiệu quả chuyển dịch chưa cao. Cụ thể là quy mô, địa bàn sản xuất của hầu hết các nông sản hàng hóa chủ lực còn phân tán, phát triển theo chiều rộng là chính, hàm lượng khoa học và công nghệ đưa vào sản phẩm còn ít, dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế yếu...
Châu Thành là một trong 11 huyện, thị của tỉnh An Giang, nằm ở phía Tây sông Hậu, thuộc khu vực tứ giác Long Xuyên; có diện tích tự nhiên là 35.506 ha (trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 86,9%), dân số 176.782 người, với phần lớn người dân sống bằng nghề nông nghiệp, đời sống khó khăn, cơ sở vật chất còn thiếu thốn. Trong những năm qua, kinh tế nông nghiệp của huyện đã có những chuyển biến tích cực, nhiều vùng đất trước đây chưa được khai thác, hoặc khai thác chưa có hiệu quả nay đã được sử dụng tương đối hiệu quả vào các lĩnh vực kinh tế khác nhau... Tuy nhiên, so với tiềm năng và nguồn lực của huyện thì tốc độ phát triển kinh tế nông nghiệp còn thấp, cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch chậm, chưa hợp lý. Do vậy, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của huyện nhằm khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế, tăng sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường trong nước và quốc tế, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống của nông dân, đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH của tỉnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong bối cảnh hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài: Giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang để viết luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
- Bùi Tất Thắng, 1994: Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá của NIEs Đông Nam Á và Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Thạo: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở An Giang, tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2-1995.
- Bùi Tất Thắng, 1996: Những nhân tố ảnh hưởng tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá của Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Lê Đình Thắng, 1998: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
- Đặng Kim Sơn – Hoàng Thu Hoà, 2002: Một số vấn đề về phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Lê Huy Ngọ, 2002: Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Lâm Quang Huyên, 2002: Nông nghiệp, nông thôn Nam bộ hướng tới thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Đinh Phi Hổ, 2003: Kinh tế nông nghiệp – Lý luận và thực tiễn, Nxb Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Minh Châu, 2004: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long những năm đầu thế kỷ XXI, Hội thảo khoa học vì sự phát triển đồng bằng sông Cửu Long.
- Bùi Tất Thắng, 2006: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu sâu và hệ thống về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu: Đề xuất giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang giai đoạn từ nay đến năm 2010 và 2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện;
- Phân tích, đánh giá một cách hệ thống thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, chỉ ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân;
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang giai đoạn 1995-2007. Các giải pháp và kiến nghị mà luận văn dự kiến đề xuất chủ yếu thuộc phạm vi quản lý nhà nước của chính quyền huyện Châu Thành, tỉnh An Giang và cơ quan quản lý nhà nước các cấp có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sử dụng tổng hợp một số phương pháp như thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp, tổng kết thực tiễn… Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu liên quan, đồng thời dựa vào các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp chủ yếu sau đây:
- Góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện;
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang;
- Đề xuất được phương pháp và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện Châu Thành, tỉnh An Giang theo hướng CNH, HĐH trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
1.1.1. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Để hiểu khái niệm cơ cấu kinh tế, trước hết cần làm rõ khái niệm cơ cấu. Theo quan điểm triết học duy vật biện chứng, cơ cấu là một khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Trong khi chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và tổng thể, cơ cấu biểu hiện ra như là một thuộc tính của sự vật, hiện tượng và biến đổi cùng với sự biến đổi của sự vật, hiện tượng. Như vậy, có thể thấy có nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức cơ cấu của khách thể và các hệ thống [29, tr.28].
Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau. Đồng thời giữa chúng luôn có quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình vận động và phát triển. Sự vận động và phát triển của nền kinh tế còn chứa đựng sự thay đổi của chính bản thân các bộ phận và cách thức quan hệ giữa chúng với nhau trong mỗi thời điểm và trong mỗi điều kiện khác nhau. Do đó, có thể khái quát cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành cùng với những mối quan hệ về chất lượng và số lượng giữa các bộ phận cấu thành nền kinh tế trong không gian, thời gian và điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Cơ cấu kinh tế là kết quả của sự phân công lao động xã hội, được bắt đầu từ việc tăng năng suất lao động và sự phát triển của các mối quan hệ trao đổi hàng hóa, tiền tệ.
Cơ cấu kinh tế phản ánh sự tương tác sống động giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó vai trò quyết định là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự cân đối, đồng bộ giữa các bộ phận trong cơ cấu kinh tế xét trên quan điểm hệ thống với các cấp độ khác nhau, gắn với thời gian, không gian và đặc điểm chính trị, kinh tế - xã hội nhất định có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tái sản xuất và phát triển cả về kinh tế và xã hội.
Như vậy, bản chất của cơ cấu kinh tế là sự biểu hiện của các mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất xã hội, đó là mối quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng không đơn thuần chỉ là những quan hệ về mặt số lượng và tỷ lệ giữa các yếu tố - biểu hiện về lượng hay sự tăng trưởng của hệ thống, mà là những mối quan hệ bên trong và bên ngoài của các yếu tố đó - biểu hiện về chất hay sự phát triển của hệ thống [34, tr.11].
Cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ khách quan giữa các yếu tố, các bộ phận hợp thành nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế luôn gắn với phương thức sản xuất nhất định và một nền kinh tế nhất định. Nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành và tùy theo mục đích phân tích mà có sự phân loại các yếu tố đó một cách tương ứng. Song, về cơ bản, cơ cấu kinh tế được xét trên 2 mặt, đó là mặt vật chất – kỹ thuật và mặt kinh tế - xã hội.
- Về mặt vật chất - kỹ thuật, bao gồm cơ cấu ngành nghề, loại hình tổ chức kinh doanh, trình độ kỹ thuật, sự bố trí theo vùng lãnh thổ.
- Về mặt kinh tế - xã hội, bao gồm cơ cấu thành phần kinh tế, trình độ phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, quan hệ thị trường.
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Bản thân ngành nông nghiệp cũng là một hệ thống phức tạp với nhiều bộ phận hợp thành. Theo đó, có thể hiểu cơ cấu kinh tế nông nghiệp là tổng thể các yếu tố hợp thành nền nông nghiệp theo những quan hệ nhất định cùng với sự tác động qua lại lẫn nhau gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể (điều kiện tự nhiên, trình độ công nghệ, trình độ phân công lao động, trình độ tổ chức quản lý…) nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đã định.
Cũng như cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp mang tính khách quan, lịch sử, xã hội và luôn gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phân công lao động xã hội… chuyển dịch từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp dưới tác động của quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu kinh tế nói chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng chịu tác động của quy luật cung cầu, giá trị và cạnh tranh. Do vậy, xây dựng cơ cấu kinh tế nông nghiệp không thể duy ý chí, mà phải nhận thức đúng đắn sự vận động của quy luật khách quan, vận dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp hình thành, biến đổi gắn liền với sự phát triển của cơ chế thị trường, từ kinh tế tự nhiên dần dần chuyển thành kinh tế hàng hóa, quá trình này tác động và thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển đa dạng và năng động theo hướng tiên tiến.
1.1.2. Các cách tiếp cận cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau:
Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp: Được thể hiện ở những mối quan hệ, tỷ lệ giữa các phân ngành trong ngành nông nghiệp (nông-lâm-ngư-diêm nghiệp…). Trong quá trình phát triển, tương quan giữa các phân ngành trong cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp sẽ có những chuyển biến quan trọng theo hướng đa dạng hoá sản xuất. Đó chính là sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp phản ánh sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa sản xuất, được hình thành dựa trên mối quan hệ giữa các đối tượng khác nhau của nền sản xuất, sản xuất càng phát triển thì tập hợp ngành kinh tế càng đa dạng. Xem xét cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp không chỉ dựa trên chỉ tiêu giá trị, mà còn phải phân tích chỉ tiêu lao động, chỉ tiêu vốn đầu tư… Tổng hợp các chỉ tiêu đó phản ánh thực trạng cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp.
Cơ sở của cơ cấu ngành là sự phân công lao động xã hội; phân công lao động xã hội càng sâu sắc thì cơ cấu ngành càng được phân chia đa dạng. Tiền đề của sự phân công lao động trong nông nghiệp là năng suất lao động nông nghiệp. Trước hết, năng suất lao động của khu vực sản xuất lương thực phải đạt tới một giới hạn nhất định, đảm bảo đủ lương thực cần thiết cho xã hội. Đây là cơ sở quan trọng cho sự phân công giữa những người sản xuất lương thực với những người chăn nuôi và các ngành nghề khác trong nông nghiệp.
Cơ cấu thành phần kinh tế: Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng là một tất yếu khách quan trên con đường đi lên của đất nước. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta gồm:
Kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước, được củng cố và phát triển trong các ngành và lĩnh vực then chốt, trọng yếu của nền kinh tế, đảm đương hoạt động mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh. Trong nông nghiệp, nông thôn, kinh tế nhà nước cần tập trung vào các lĩnh vực quy hoạch sản xuất, cơ giới hóa, phát triển thủy lợi và kết cấu hạ tầng nông thôn, hỗ trợ vốn và khoa học công nghệ cho nông nghiệp; đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật; giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành công nghiệp chế biến nông sản, cung ứng dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tham gia quản lý tài nguyên.
Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là kinh tế hợp tác xã và tổ liên kết sản xuất là hình thức liên kết tự nguyện của người lao động, kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh của các thành viên để giải quyết có hiệu quả những vấn đề sản xuất - kinh doanh và đời sống, phát triển trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Bối cảnh phát triển hiện nay đòi hỏi phải chú trọng các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung ứng dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại; mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa các hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước phải vươn lên nắm vai trò chủ đạo và trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế cá thể và tiểu chủ: Kinh tế cá thể và tiểu chủ được khuyến khích phát triển ở cả thành thị, nông thôn, trong các ngành nghề không bị hạn chế, có thể tồn tại độc lập hoặc tham gia vào các hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp bằng nhiều hình thức. Trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta hiện nay, kinh tế hộ gia đình - một bộ phận của kinh tế cá thể, tiểu chủ - đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước khuyến khích phát triển trang trại hộ gia đình nhằm khai thác đất trống, đồi núi trọc, mặt nước và đất hoang hóa để phát triển sản xuất.
Kinh tế tư bản tư nhân: Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; được khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và liên doanh với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động.
Kinh tế tư bản nhà nước: Kinh tế tư bản nhà nước tồn tại dưới các hình thức liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước, hình thức này phát triển ngày càng đa dạng.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất - kinh doanh hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng.
Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ: Cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ phản ánh sự phân công lao động xã hội về mặt không gian, địa lý. Trong nông nghiệp, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ dựa trên điều kiện riêng, đặc thù về tiềm năng, thế mạnh của mỗi vùng trong phạm vi quốc gia hay các địa phương. Cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ phản ánh sự khác nhau về điều kiện sản xuất của mỗi vùng nhưng được đặt trong sự thống nhất chung của toàn bộ nền nông nghiệp. Việc phân vùng kinh tế nông nghiệp theo vùng lãnh thổ không đồng nghĩa với phân chia địa giới hành chính và là cơ sở quan trọng cho việc hoạch định và thực thi chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Mục đích của phân vùng là nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, khắc phục mặt hạn chế của từng vùng trong tổng thể chung của cả nước, tạo ra sự liên kết bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau giữa các vùng. Quan trọng hơn là mở ra hướng chuyên canh sản xuất nông sản hàng hóa đặc trưng của mỗi vùng với khối lượng lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, thuận lợi cho việc chế biến, vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm, góp phần phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất mới, sản xuất hàng hóa đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế vùng, cần chú trọng tác động vĩ mô của Nhà nước thông qua hệ thống các chủ trương, chính sách khuyến nông, xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế ưu đãi, chính sách trợ giá, tín dụng ưu đãi và những thông tin cần thiết.
Cơ cấu kinh tế theo quy mô và trình độ công nghệ: Cơ cấu kinh tế xét theo quy mô và trình độ công nghệ có vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế. Cơ cấu quy mô các cơ sở sản xuất - kinh doanh vừa nói lên mức độ tập trung hoá sản xuất của nền kinh tế, vừa nói lên khả năng linh hoạt, mền dẻo của các loại hình tổ chức sản xuất. Cơ cấu trình độ công nghệ phản ánh chất lượng và hàm lượng khoa học, công nghệ và tri thức trong nền kinh tế. Trình độ công nghệ của sản xuất được đặc trưng bởi đặc điểm của công nghệ sản xuất và quản lý. So với khu vực công nghiệp và dịch vụ, trình độ công nghệ chung trong sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đã làm cho kỹ thuật về giống, phân bón, tưới tiêu, bảo vệ thực vật… từng bước được đổi mới và áp dụng ngày càng có hiệu quả vào sản xuất nông nghiệp. Quá trình cơ giới hoá nông nghiệp đã thâm nhập vào các khâu làm đất, gieo c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van thac si.doc
- BIA LV 2.doc