Trong hơn 15 năm đổi mới chuyển đổi từcơchếkếhoạch hoá tập trung
sang nền kinh tếthịtrường có sựquản lý của Nhà nước, nền kinh tếViệt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và rút ra được những bài học thực tiễn
quý báu cho quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Kinh tếthịtrường đòi
hỏi sựgắn bó mật thiết giữa sản xuất và tiêu dùng, cho nên đưa sản phẩm ra
thịtrường và được khách hàng chấp nhận luôn là vấn đềquan trọng đối với
các doanh nghiệp.
Ngày nay, xu thếquốc tếhoá và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng,
sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khi Việt Nam đang bước đầu mởcửa, hội
nhập với khu vực và toàn cầu, thì vấn đềsản xuất, xuất khẩu . có ý nghĩa rất
to lớn đối với sựtồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt, khi mà
các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển một mặt phải củng cốthịtrường
đã có, mặt khác phải tìm kiếm và xuất khẩu ra thịtrường mới trên thếgiới.
Marketing xuất khẩu sẽ đóng vai trò thiết yếu trong thành công hay thất bại
của các công ty trên thương trường quốc tế.
Có một thực tếlà các doanh nghiệp Việt Nam chưa mạnh dạn xuất khẩu
sang các nước có mức sống cao nhưEU, Mỹvà Nhật Bản . đây là các thị
trường lớn nhưng kỹtính đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng cao mẫu mã
đẹp. Điều này có nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân quan trọng là các
doanh nghiệp chưa thích ứng được với thịtrường quốc tếngay mà đòi hỏi
phải có thời gian hoạt động dài mà vốn đầu tưcho quá trình nghiên cứu và
ứng dụng còn hạn chế. Là một doanh nghiệp nhà nước, công ty may Chiến
Thắng đã từng trải qua thời k ỳkếhoạch hoá tập trung bao cấp. Bởi vậy, khi
chuyển sang cơchếthịtrường công ty may Chiến Thắng không khỏi bỡngỡ
trước những cơhội và thách thức. Trong quá trình chuyển đổi, công ty đã
từng bước khắc phục khó khăn, mạnh dạn linh hoạt trong việc xuất khẩu sản
phẩm ra thịtrường nước ngoài và đạt được những kết quảnhất định. Càng cọ
xát với thịtrường quốc tế, công ty may Chiến Thắng càng thấy rõ tầm quan
trọng của việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thịtrường các nước trên thếgiới.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
hướng vềxuất khẩu sản phẩm may mặc, trong thời gian thực tập tại công ty
may Chiến Thắng em thấy đềtài “Giải pháp Marketing nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh hướng vềxuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị
trường EU- ứng dụng tại công ty may Chiến Thắng”phù hợp với bản thân,
đòng thời với sựgiúp đỡcủa các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý,
các cán bộcông nhân viên của Phòng kinh doanh và phòng xuất nhập khẩu
của công ty may Chiến Thắng.
Kết cấu đềtài gồm 3 chương:
Chương I:Lý luận cơbản vềMarketing kinh doanh
Chương II:Thực trạng hoạt động Marketing kinh doanh sản phẩm may
mặc của công ty may Chiến Thắng.
Chương III:Giải pháp Marketing đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm may
mặc sang thịtrường EU của công ty may Chiến Thắng.
74 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2558 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp marketing nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hướng về xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường EU, ứng dụng tại công ty may Chiến Thắng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong hơn 15 năm đổi mới chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và rút ra được những bài học thực tiễn
quý báu cho quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Kinh tế thị trường đòi
hỏi sự gắn bó mật thiết giữa sản xuất và tiêu dùng, cho nên đưa sản phẩm ra
thị trường và được khách hàng chấp nhận luôn là vấn đề quan trọng đối với
các doanh nghiệp.
Ngày nay, xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng,
sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khi Việt Nam đang bước đầu mở cửa, hội
nhập với khu vực và toàn cầu, thì vấn đề sản xuất, xuất khẩu ... có ý nghĩa rất
to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt, khi mà
các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển một mặt phải củng cố thị trường
đã có, mặt khác phải tìm kiếm và xuất khẩu ra thị trường mới trên thế giới.
Marketing xuất khẩu sẽ đóng vai trò thiết yếu trong thành công hay thất bại
của các công ty trên thương trường quốc tế.
Có một thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam chưa mạnh dạn xuất khẩu
sang các nước có mức sống cao như EU, Mỹ và Nhật Bản ... đây là các thị
trường lớn nhưng kỹ tính đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng cao mẫu mã
đẹp. Điều này có nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân quan trọng là các
doanh nghiệp chưa thích ứng được với thị trường quốc tế ngay mà đòi hỏi
phải có thời gian hoạt động dài mà vốn đầu tư cho quá trình nghiên cứu và
ứng dụng còn hạn chế. Là một doanh nghiệp nhà nước, công ty may Chiến
Thắng đã từng trải qua thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Bởi vậy, khi
chuyển sang cơ chế thị trường công ty may Chiến Thắng không khỏi bỡ ngỡ
trước những cơ hội và thách thức. Trong quá trình chuyển đổi, công ty đã
từng bước khắc phục khó khăn, mạnh dạn linh hoạt trong việc xuất khẩu sản
2
phẩm ra thị trường nước ngoài và đạt được những kết quả nhất định. Càng cọ
xát với thị trường quốc tế, công ty may Chiến Thắng càng thấy rõ tầm quan
trọng của việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước trên thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
hướng về xuất khẩu sản phẩm may mặc, trong thời gian thực tập tại công ty
may Chiến Thắng em thấy đề tài “Giải pháp Marketing nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh hướng về xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị
trường EU- ứng dụng tại công ty may Chiến Thắng” phù hợp với bản thân,
đòng thời với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý,
các cán bộ công nhân viên của Phòng kinh doanh và phòng xuất nhập khẩu
của công ty may Chiến Thắng.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận cơ bản về Marketing kinh doanh
Chương II: Thực trạng hoạt động Marketing kinh doanh sản phẩm may
mặc của công ty may Chiến Thắng.
Chương III: Giải pháp Marketing đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm may
mặc sang thị trường EU của công ty may Chiến Thắng.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do trình độ và khả năng còn hạn chế
nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của
các thầy giáo, cô giáo và các cô chú để bài viết đạt được kết quả tốt
3
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MARKETING XUẤT KHẨU
I. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1. Khái niệm:
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài
trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất
khẩu là hoạt động bán và trao đổi hàng hoá ( gồm cả trao đổi hàng hoá giữa
các quốc gia, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc
gia hoặc giữa các thị trường nội địa và khu chế xuất trong nước).
Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của ngoại thương xuất hiện từ lâu đời,
ngày càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Hình thức cơ bản
ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay
nó đã phát triển rất mạnh dưới nhiều hình thức khác nhau. Ngày nay, hoạt
động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế bởi không ai có thể cho rằng tự cung tự cấp, không mở
rộng quan hệ đối ngoại là tồn tại được.
2. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong quá
trình phát triển do khác nhau về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân
lực và các tài nguyên thiên nhiên ... dẫn đến sự khác biệt về thế mạnh trong
các lĩnh vực khác nhau của mỗi quốc gia. Để tạo sự cân bằng trong quá trình
sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi các loại hàng hoá
cho nhau.
Tuy nhiên xuất khẩu không phải chỉ diễn ra giữa các quốc gia có những
lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác mà ngay cả khi quốc gia đó không
có lợi thế vẫn có thể thu được lợi ích không nhỏ khi tham gia vào hoạt động
xuất khẩu.
4
Cơ sở lợi ích của hoạt động xuất khẩu được chứng minh qua lý thuyết lợi
thế so sánh. Theo lý thuyết này, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn với
các quốc gia khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia
đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu để tạo ra lợi ích cho mình
bằng việc chuyên môn hoá vào sản xuất những hàng hoá mà việc sản xuất ra
chúng là ít bất lợi nhất và trao đổi với các quốc gia khác, đồng thời nhập khẩu
loại hàng hoá không có lợi thế so sánh.
3. Các hình thức xuất khẩu
Với mục tiêu đa dạng hoá các hình thức kinh doanh xuất khẩu nhằm
phân tán và chia sẻ rủi ro cho các doanh nghiệp sẽ có những hình thức xuất
khẩu khác nhau sao cho có lợi thế nhất.
3.1 Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính
doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới
khách hàng thông qua các tổ chức của mình. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực
tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh song lại có những ưu điểm
nổi bật sau:
- Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp .
- Có thể liên hệ trức tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị
trường nước ngoài, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình bán
hàng ở đó nên có thể thay đổi sản phẩm và những điêù kiện bán hàng
trong trường hợp cần thiết.
3.2. Xuất khẩu uỷ thác
Là hình thức kinh doanh , trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là
người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán
ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà
sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định (thường là tỷ lệ % của các
giá trị lô hàng xuất khẩu).
5
Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp đặc biệt là không cần
bỏ vốn vào kinh doanh , tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng
thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra, trách nhiệm trong việc tranh
chấp khiếu nại thuộc về người sản xuất.
3.3. Bán buôn đối lưu.
Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu,
người bán đồng thời là người mua và lượng hàng hoá mang ra trao đổi thường
có giá trị tương đương. Mục đích của xuất khẩu ở đây không phải là nhằm thu
về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có được một lượng hàng hoá có giá
trị tương đương với giá trị lô hàng nhập khẩu.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về sự biến động
của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên
không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào
đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục
thường xuyên trong cán cân thanh toán.
3.4. Giao dịch qua trung gian.
Đây là giao dịch mà mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán và người
mua đều phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người
trung gian hay đại lý, môi giới.
Đại lý thương nhân hay pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo
sự uỷ thác của người uỷ thác, quan điểm này dưa trên cơ sở hợp đồng đại lý.
Có nhiều đại lý khác nhau như: Đại lý hoa hồng, đại lý toàn quyền, tổng đại
lý.
Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán khi
tiến hành các nghiệp vụ người môi giới không đứng tên mình mà đứng tên
người uỷ thác.
3.5.Tái xuất khẩu.
Tái xuất khẩu là xuất khẩu hàng hoá mà trước đây đã nhập khẩu và chưa
tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm của nó là các doanh nghiệp có thể
6
thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất. Chủ thể tham gia
hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có 3 quốc gia: nước xuất khẩu, nước
nhập khẩu và nước tái xuất khẩu . Hàng hoá có thể đi thẳng từ nước xuất khẩu
đến nước nhập khẩu hoặc từ nước nhập khẩu sang nước tái xuất khẩu qua đó
mới tới nước nhập khẩu.
3.6. Gia công quốc tế.
Là một hình thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia
công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là
bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và
nhận thù lao (gọi là phí gia công).
II. BẢN CHẤT CỦA MARKETING- XUẤT KHẨU.
1. Định nghĩa và chức năng Marketing - xuất khẩu
1.1. Định nghĩa.
Marketing xuất khẩu là chức năng quản lý doanh nghiệp trong đó việc tổ
chức và quản lý toàn bộ các hoạt động kinh doanh xuất khẩu theo một tập hợp
các phương pháp kỹ thuật. Từ đó doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh và sau đó
duy trì tập hợp khách hàng có hiệu quả cho mình nhờ thường xuyên lắng nghe
thị trường để dự báo, đồng thời thích nghi với thị trường đó.
1.2.Chức năng của marketing -xuất khẩu .
Chức năng của marketing là làm thích ứng các chính sách kinh doanh
xuất khẩu của doanh nghiệp với nhu cầu của thị trường nươcs ngoài, gồm 3
nội dung chính.
Thứ nhất: Xác định các cơ hội và thách thức để kết hợp chúng trong
chiến lược phát triển quốc tế của doanh nghiệp .
Hoạt động marketing sẽ tập trung vào việc phân tích môi trường kinh
doanh quốc tế nhằm đánh giá được thực trạng môi trường và vị trí của doanh
nghiệp . Môi trường kinh doanh ở tầm vĩ mô bao gồm mổi trường nhân khẩu,
môi trường kinh tế, môi trường văn hoá, xã hội, môi trường chính trị luật
pháp, môi trường công nghệ và môi trường cạnh tranh, ở tầm vi mô, doanh
7
nghiệp phải xem xét các yếu tố như khách hàng, đối thủ cạnh tranh, kênh
phân phối và các nhà cung cấp. Sau khi xác định được những cơ hội và thách
thức do môi trường đem lại, cùng với việc hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu của
mình, doanh nghiệp đưa ra được một chiến lược phát triển.
Thứ hai: Xác định rõ các luật chơi của các thị trường nước ngoài.
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá đều phải tham gia vào trò chơi mà
ở đó chính quyền không bao giờ giữ vai trò thụ động hay trung lập. Bất chấp
xu hướng chung là tự do hoá mậu dịch, chính quyền các nước luôn có xu
hướng khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu để cải thiện cán cân thanh
toán.
Các nhà xuất khẩu sẽ gặp những điều kiện thuận lợi nếu nước nhập khẩu
đang thiếu hụt một mặt hàng nào đó hoặc nhà xuất khẩu cung cấp hàng hoá và
dịch vụ có công nghệ cao. Tuy nhiên, hành vi thường thấy nhất ở các nước
nhập khẩu là phòng thủ bằng cách tạo ra các hàng rào cản trở. Do đó, người
xuất khẩu phải hết sức chú ý mà dự đoán được những biện pháp và các phản
ứng của nước ngoài.
Bên cạnh đó các nhà xuất khẩu sẽ phải vượt qua những giai đoạn hết sức
chặt chẽ của nước nhập khẩu về phương diện kỹ thuật, tiêu chuẩn và kiểm
soát chất lượng dưới sự theo dõi tỷ mỉ của chính quyền địa phương.
Thứ ba: Xác định rõ sự biến dạng của các điều kiện thị trường.
Với cùng một sản phẩm các điều kiện của thị trường còn khác nhau về
cơ bản giữa nước này với nước khác, đồng thời sự khác biệt về mặt tổ chức và
các động thái của thị trường dẫn đến thị hiếu tiêu dùng và tổ chức mạng lưới
phân phối khác nhau.
Sự khác biệt về hình thái thị trường và phản ứng của thị trường đòi hỏi
doanh nghiệp làm nhiệm vụ xuất khẩu phải có một tổ chức riêng biệt về
marketing-xuất khẩu đặc trưng bởi:
- Một hệ thống quan sát hữu hiệu tập hợp các thị trường để nhận
biết một cách nhanh chóng và nếu có thể thì dự báo các biến động.
8
- Một khả năng phản ứng nhanh với các yêu cầu đặc biệt, đồng
thời với nó là khả năng thích nghi nhanh từ phía dịch vụ sản xuất và dịch
vụ hành chính.
- Một hệ thống theo dõi kết quả và kiểm tra hiệu quả hoạt động đã
cam kết bất chấp những khó khăn sinh ra do sự khác biệt về môi trường kế
toán, sự biến động về tiền tệ và sự khác biệt về “văn hoá” trong quản lý
doanh nghiệp .
- Một khả năng sáng tạo và áp dụng nhanh những thay đổi trong
kỹ thuật thu thập thông tin và kỹ thuật hoạt động trên thị trường để bao
quát được mọi trường hợp riêng biệt.
1.3. Mục tiêu của marketing- xuất khẩu .
Hầu hết các nhà kinh doanh đều hiểu được việc thực hiện hoạt động
marketing-xuất khẩu nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong chiến
lược kinh doanh . Việc xác định những mục tiêu trọng yếu khác nhau phù hợp
với từng thời điểm và tình thế kinh doanh là vấn đề sống còn của mỗi doanh
nghiệp .
Để xác định mục tiêu marketing - xuất khẩu , người ta thường tự nêu ra
các câu hỏi sau:
- Nên xuất khẩu ra những thị trường nào, tại khu vực nào và cho
nhóm người tiêu dùng nào?
- Phải làm thế nào để hấp dẫn sản phẩm của mình đối với từng thị
trường, từng nhóm người tiêu dùng?
- Cần đặt tỷ phần thị trường là bao nhiêu?
- Cần phải bán được bao nhiêu (trị giá, số lượng và cần thu lợi
nhuận là bao nhiêu)?
2. Thị trương xuất khẩu .
2.1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu
2.1.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
9
Nghiên cứu thi trường là một việc làm cần thiết đầu tiên với bất kỳ một
công ty nào muốn tham gia vào thị trường thế giới. Nghiên cứu thị trường
theo nghĩa rộng là qua trình điều tra để tìm triển vọng bán hàng cho một sản
phẩm cụ thể hay một nhóm sản phẩm, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu
đó.
Quá trình nghiên cứu thị trường không có gì khác là quá trình thu thập
thông tin số liệu về thị trường, so sánh phân tích những số liệu đó và rút ra kết
luận. Những kết luận này giúp nhà quản lý đưa ra những kết luận đúng đắn và
lập kế hoạch marketing. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chính
trong việc thực hiện phương châm hành động: “Chỉ bán cái thị trường cần chứ
không bán cái mình có”. Nói cách khác nghiên cứu thị trường là bài tập thực
tiễn đưa đến những quyết định và hành động cụ thể.
a. Các mục tiêu của nghiên cứu thị trường xuất khẩu .
- Hiểu biết chung về các thị trường mới.
- Hiểu biết chính xác, cụ thể về các yếu tố của kế hoạch marketing
tức là tối ưu hoá các hoạt động thương mại trên thị trường hiện tại. Đó là
việc xác định các đặc tính của sản phẩm xuất khẩu , xác định mức giá
thích ứng với thị trường, phân tích các kênh phân phối, tối ưu hoá công
việc giao tiếp truyền tin.
- Làm rõ tầm quan trọng của các thích ứng cần thực hiện.
b. Nội dung nghiên cứu.
- Nghiên cứu tiềm năng của thị trường: khả năng bán sản phẩm
tương ứng với chính sách marketing, bao gồm nghiên cứu nhu cầu và các
biến số định lượng khác của thị trường. Nghiên cứu nhu cầu thị trường
nhằm thu được các thông tin về tập tính, thói quen thái độ, tâm lý của
người tiêu dùng, dự đoán và xác định nhu cầu hàng hoá về mặt chất lượng,
giá cả và cơ cấu hàng hoá về mặt thời gian.
- Nghiên cứu khả năng thâm nhập thị trường.
Điều kiện địa lý.
10
Điều kiện thương mại.
- Lựa chọn và sử dụng nguồn thông tin.
Về phương pháp luận, người ta phân biệt hai loại nguồn thông tin:
Thông tin thứ cấp và các nguồn thông tin sơ cấp. Các nguồn thông tin
thứ cấp có thể thu nhập từ tài liệu của các tổ chức quốc tế như tổ chức kinh tế-
xã hội Châu Á- Thái Bình Dương, từ tài liệu của các quốc gia và các tổ chức
tư nhân, niên giám thống kê, viện nghiên cứu thị trường giá cả, các ngân
hàng, công ty Bảo hiểm, công ty quảng cáo ... và các loại báo chí kinh tế.
Các nguồn thông tin sơ cấp được thu nhập tại hiện trường để sử dụng lần
đầu tiên nên rất khó khăn tốn kém nhưng lại rất cần thiết. Một kế hoạch
nghiên cứu hiện trường vạch ra cần có những chi tiết về thời hạn từng giai
doạn, chủ đề cần bao trùm, quy trình và chi phí cho nghiên cứu. Thông tin sơ
cấp có thể thu được bằng 3 biện pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
điều tra phỏng vấn, phương pháp quan sát và phương pháp thực nghiệm.
2.1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu
Việc xác định thị trường có triển vọng là cấn thiết sau khi đã có các số
liệu thống kê. Việc lựa chọn thị trường phụ thuộc cả vào những yếu tố khách
quan và chủ quan. Đó là:
- Quan hệ chính trị, kinh tế, thương mại giữa hai nước
- Vị trí địa lý
- Mức tổng tiêu thụ trên thị trường (nội địa, xuất khẩu , nhập khẩu)
- Tăng tiêu thụ
- Tăng nhập khẩu
- Giá nhập khẩu
- Các biện pháp bảo hộ mậu dịch trên thị trường
- Hệ thống phân phối trên thị trường
- Những đặc điểm văn hoă, xã hội ... của thị trường.
Lựa chọn thị trường gồm hai bước:
Bước thứ nhất: Xác định giới hạn điều tra:
11
Cơ hội để phát triển thị trường cho mặt hàng trên thế giới có thể không
có giới hạn, nhưng nguồn vốn hiện có giành cho dự đoán và khai thác những
cơ hội đó lại có chừng mực vì vậy nên giới hạn điều tra vào những thị trường
được phép buôn bán để tránh lãng phí thời gian , tiền của vào các bước nghiên
cứu tiếp theo.
Bước thứ hai: So sánh các thị trường. Mục đích của bước này là đi đến
phân loại thị trường, tìm ra được những thị trường có triển vọng lớn cũng như
thị trường kém phát triển nhất, loại ra những thị trường có tiềm năng nhỏ
hoặc không hấp dẫn.
3. Môi trường marketing – xuất khẩu
3.1.Môi trường kinh tế
Khi xét đến các thị trường nước ngoài , nhà marketing quốc yế phải xem
xét nền kinh tế từng nước. Có hai đặc tính phản ảnh sức hấp dẫn của thị
trường xét như một thị trường xuất khẩu.
Thứ nhất:Mức độ phát triển thị trường.
Những thị trường xuất khẩu có thể có ở vào những giai đoạn có những
đặc trưng riêng biệt. Thông thưòng người ta phân nhóm thị trường theo nhóm
nước.
Chẳng hạn thị trường những nước công nghiệp phát triển gồm: Mỹ ,
Nhật, Đan Mạch, Canađa, Italia, Đức, ...
Ở mỗi cấp độ phát triển, cơ sở hạ tầng và phương thức tiến hành kinh
doanh ở mỗi thị trường là khác nhau đòi hỏi các kiểu kích thích marketing
khác nhau. Tương tự , những cơ hội, trở ngại thách thức dành cho nhà xuất
khẩu cũng khác nhau.
Thứ hai: Quốc gia đó nằm trong liên minh kinh tế nào
Sự hợp nhất kinh tế là sự phù hợp lại theo một thể thức nào đó những
nền kinh tế riêng biệt của từng nước thành một nền kinh tế lớn hơn, nhằm đẩy
mạnh các quan hệ kinh tế, hạn chế tối thiểu ảnh hưỏng xấu do biên giới chính
trị đem lại.
12
Một Công ty sẽ chịu hai dạng ảnh hưởng chính trong việc xuất khẩu vào
một vùng hợp nhất. Đó là hiệu ứng thiên vị và hiệu ứng tăng trưởng. Hiệu
ứng thiên vị xẩy ra khi kim ngạch xuất khẩu của Công ty giảm vì bị phân biệt
đối xử và quyền ưu tiên đã giành cho các đối thủ trong vùng nội bộ hợp nhất.
Tuy nhiên ở mức độ nào đó, công ty được bù đắp bằng hiệu ứng tăng trưởng.
Đó là do khi một vùng kinh tế được tạo ra, thị trường mở rộng sẽ thúc đẩy
buôn bán và tăng trưởng kinh tế, khách hàng công nghiệp, và người tiêu dùng
sẽ có nhiều tiền hơn để mua hàng hoá từ nước ngoài.
3.2 Môi trương văn hoá - xã hội.
Môi trường văn hoá - xã hội ảnh hưởng đến hành vi của khách hàng, yếu
tố cấu thành thị trường, hành vi của người lập và thi hành kế hoạch marketing
– xuất khẩu cùng các nhà trung gian marketing như các đại lý quảng cáo, các
phương tiện truyền tin... Các nhà quản trị xuất khẩu có thể phạm sai lầm khi
xuất khẩu họ “xuất khẩu “ luôn cả các tập tục, chuẩn mực văn hoá ra thị
trường ngoài cùng hàng hoá, dịch vụ của mình. Các nhà nhân loại học cho
rằng văn hoá là gốc rễ cho lối sống, thái độ, sự hiểu biết, nhận thức ...của con
người.
Hiểu biết về văn hoá có thể quyết định thắng thua trong xuất khẩu .
Những nhà quản trị mark