Năm 2011 là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 . Năm 2011 cũng là năm diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Chính phủ đã đề ra mục tiêu củng cố kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo ra một sự phát triển nhanh nhưng bền vững (về năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh. . .).
Một số chỉ tiêu cơ bản Chính phủ dự kiến cho năm 20 1 1 :
+ Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 7 - 7,5% so với năm 2010; GDP bình quân đầu người khoảng 1.300 USD.
+ Tổng kim ngạch xuất khẩu là 78,8 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2010. Giảm nhập siêu xuống dưới 18%.
+ Tổng thu ngân sách nhà nước 590,5 nghìn tỷ đồng; Tổng chi ngân sách nhà nước 725,6 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP 5,5%.
+ Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 40% GDP.
+ CPI tăng khoảng 7%.
Để đạt được những mục tiêu trên, Quốc hội và Chính phủ đã xác định, năm 2011 sẽ phối hợp chặt chẽ điều hành chính sách tài khóa, điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiềm chế làm phát và quản lý nhập siêu.
68 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2110 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội chi nhánh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG TRUNG CẤP KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ ĐÔNG NAM
(((
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP
SÀI GÒN – HÀ NỘI CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG
GVHD: Th.S Nguyễn Minh Nhựt Quang
BÌNH DƯƠNG, THÁNG 06 NĂM 2011
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG TRUNG CẤP KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ ĐÔNG NAM
(((
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP
SÀI GÒN – HÀ NỘI CHI NHÁNH BÌNH DƯƠNG
GVHD: Th.S Nguyễn Minh Nhựt Quang
Nhóm SVTH:
1. Ngô Thị Thu MSSV: 04TCBT5104
2. Lê Thị Nhì MSSV: 04TCRP5103
3. Nguyễn Văn Bình Minh MSSV: 03SXPC001
4. Nguyễn Thị Hồng Nhung MSSV: 03TCCS027
5. Nguyễn Hữu Nhiệm MSSV: 04TCBT5102
CHƯƠNG l
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG.
1.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ kinh tế trong đó ngân hàng chuyển cho chủ thể khác trong nền kinh tế quyền sử dụng một lượng giá trị (tiền hoặc tài sản ) với những điều kiện nhất định được thỏa thuận trong hợp đồng.
Căn cứ theo hình thức tài trợ, tín dụng được thành cho vay, cho thuê, bảo lãnh, chiết khấu. Đây là cách phân loại phổ biến ở các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động tín dụng thì cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất và cũng là tài sản mang lại thu nhập lớn nhất. Tuy nhiên hoạt động này cũng gắn liền với nhiều rủi ro. Do đó cần phải phân loại cho vay để có thể quản lý tốt và hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
Có nhiều tiêu thức phân loại cho vay, tuy nhiên trên thực tế người ta thường phân loại cho vay theo các tiêu thức sau:
( Căn cứ vào mục đích sử dụng:
+ Cho vay phục vụ kinh doanh công thương nghiệp.
+ Cho vay bất động sản.
+ Cho vay nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
( Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
+ Cho vay ngắn hạn.
+ Cho vay trung hạn.
+ Cho vay dài hạn.
( Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của NHTM đối với khách hàng:
+ Cho vay không đảm bảo.
+ Cho vay có đảm bảo.
( Căn cứ vào tiêu thức hình thái của cho vay:
+ Cho vay bằng tiền.
+ Cho vay bằng tài sản.
( Căn cứ vào tiêu thức hoàn trả nợ vay:
+ Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay một lần khi đáo hạn.
+ Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp.
+ Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy theo khả năng tài chính của người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào.
( Căn cứ vào phương thức cho vay:
+ Cho vay theo món.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Vậy thì cho vay tiêu dùng tại ngân hàng là như thế nào? Cho vay tiêu dùng của ngân hàng nhằm tài trợ cho các nhu cầu tiêu dùng của hộ gia đình và cá nhân. Là quan hệ kinh tế trong đó ngân hàng chuyển cho các cá nhân hoặc hộ gia đình quyền sử dụng khoản tiền với những điều kiện nhất định được thỏa thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng của khách hàng. Các mục đích tiêu dùng có thể là: mua nhà, xây sửa nhà, mua xe, các dụng cụ trong gia đình, chi phí cho việc đi du học, …
1.2 Những đặc điểm của cho vay tiêu dùng tại các NHTM.
Để làm nổi bật và rõ hơn những đặc điểm của cho vay tiêu dùng, ta so sánh nó với cho vay kinh doanh.
( Về mục đích vay: Cho vay tiêu dùng nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân nhưng cho vay kinh doanh thì sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
( Về đối tượng vay: Các cá nhân và hộ gia đình là khách hàng của loại hình cho vay tiêu dùng trong khi đó cho vay kinh doanh lại là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân và hộ gia đình.
( Về nguồn trả nợ: Nguồn trả nợ của cho vay tiêu dùng là các tài sản thế chấp, tài sản hình thành từ tiền vay hoặc từ tiền lương hay thu nhập; còn đối với cho vay kinh doanh thì nguồn trả nợ là lợi nhuận kinh doanh.
( Về rủi ro: Phương thức cho vay tiêu dùng chứa đựng nhiều rủi ro nhất trong danh mục các tài sản của ngân hàng. Sở dĩ như vậy là vì nguồn trả nợ chủ yếu là thu nhập thường xuyên của người vay. Mà những khoản thu nhập này lại phục thuộc vào sức khỏe và công việc của người vay. Do vậy khi bị mất việc, ốm đau hoặc tai nạn… người vay khó có thể trả nợ. Hơn nữa việc thẩm định khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình cũng khó khăn hơn. Bởi đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ngân hàng có thể thẩm định khả năng trả nợ dựa trên các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập, còn đối với khách hàng là cá nhân và hộ gia đình ngân hàng chỉ có thể dựa vào thu nhập từ tài sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập khác. Để có được khoản vay, khách hàng có thể giấu các thông tin về tình hình sức khỏe cũng như dự định thay đổi việc làm trong tương lai của mình nên các ngân hàng rất khó xác định rủi ro khi cho vay tiêu dùng.
Và vấn đề lãi suất cho vay tiêu dùng phần lớn đều cao hơn các khoản vay khác của ngân hàng, điều này xuất phát từ việc các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí và rủi ro cao nhất trong các loại cho vay của ngân hàng. Cho vay tiêu dùng thường nhạy cảm theo chu kỳ, tăng lên khi nền kinh tế mở rộng và giảm xuống khi nền kinh tế suy thoái. Mặt khác người tiêu dùng thường ít nhạy cảm so với lãi suất, họ quan tâm đến khoản tiền phải trả hàng tháng hơn là mức lãi suất ghi trên hợp đồng.
Thêm một đặc điểm khác là người tiêu dùng thường chỉ vay một lần, ít có nhu cầu vay lại; không giống như các khoản vay thương mại: nhu cầu vay phát sinh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, lặp đi lặp lại. Do đó nếu ngân hàng không có giải pháp mở rộng thì ngân hàng sẽ dần mất đi nguồn khách hàng tiềm năng này.
( Về quy mô khoản vay: đa số các khoản vay tiêu dùng có giá trị không lớn trừ những khoản vay để mua quyền sử dụng nhà đất, mua sắm những mặt hàng xa xỉ nhưng số lượng các khoản vay tiêu dùng này lại khá cao. Điều này cũng dễ hiểu vì nhu cầu tiêu dùng, thỏa mãn chất lượng cuộc sống của chúng ta ngày càng cao.
1.3 Các hình thức CVTD tại NHTM.
Phân loại cho vay là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc nhân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dựng. Cho vay tiêu dùng có thể chia thành ba loại
1.3.1 Căn cứ vào mục đích vay:
( CVTD cư trú (Residentia/ Mortgage Loan): CVTD cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng, cải tạo nhà ở của KH là cá nhân hay hộ gia đình
( CVTD phi cư trú (Nonresiđentia/ Loan) : CVTD phi cư trú là các khoản nho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch
1.3.2 Căn cứ vào phương thức hoàn trả:
( CVTD trả góp (Installment Consumer Loan):
Đây là hình thức CVTD trong đó người đi vay trả nợ (gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương thức này thường áp dụng với các khoản vay có giá trị lởn, hoặc thu nhập từng định kỳ của khách hàng vay không đủ khả năng thanh toán hết một tần số nợ vay
Đối với loại cho vay này, NH thường chú ý tới một số vấn đề có tính nguyên tắc sau:
( Loại tài sản được tài trợ
Thiện chí trả nợ của người vay sẽ tốt hơn nếu tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu với họ một cách lâu dài trong tương lai. Do đó, NH nền tài trợ cho những TS có thời hạn sử dụng lâu bền
( Số tiền phải trả trước
Thông thường NH yêu cầu KH vay phải thanh toán trước một phần giá trị TS cần mua sắm. Số tiền này gọi là số tiền trả trước, phần còn lại NH sẽ cho vay. Số tiền trả trước này phải đủ lớn để:
- Đủ cho người đi vay có động lực nghĩ rằng họ chính là chủ sở hữu của TS, nhằm tăng thiện chí trả nợ
- Giúp NH hạn chế rủi ro trong trường hợp phải phát mại TS vay
Số tiền trả trước là cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
- Loại TS: Đối với các TS có mức độ giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều và ngược lại
- Thị trường tiêu thụ TS đã qua sử đụng: nếu TS sau khi sử dụng vẫn có thể dễ dàng được mua bán, chuyển nhượng thì số tiền trả trước thấp và ngược lại
- Năng lực của người đi vay
- Môi trường kinh tế
( Chi phí tài trợ
Là chi phí mà người đi vay phải trả cho NH cho việc sử dụng vốn. Chi phí tài trợ phải bù đắp được chi phí huy động vốn, chi phí hoạt động, bù đắp rủi ro, và mang lại lợi nhuận tương xứng cho NH
( Điều khoản thanh toán
Khi xác định điều khoản thanh toán cho khoản vay, NH cần lưu ý các yếu tố sau:
- Số tiền thanh toán mỗi định kỳ phải phù hợp với khả năng thu nhập của KH, và trong mối tương quan với các khoản chi tiêu khác của KH.
- Giá trị của TS tài trợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi
- Kỳ hạn trả nợ phải thuận lợi cho việc trả nợ của KH
- Thời hạn tài trợ không nên quá dài. Bới vì thời hạn tài trợ quá dài dễ làm giá trị TS tài trợ bị giảm mạnh, hơn thế nữa động lực trả nợ của KH cũng bị suy giảm
Số tiền mà KH phải thanh toán cho NH ở một định kỳ có thể được tính bằng một trong các phương pháp sau:
( Phương pháp gộp (Add-on Method)
Phương pháp này thường được áp dụng cho CVTD trả góp do tính đơn giản và dễ hiểu của nó:
, Với L = V x r x n
Trong đó T: số tiền phải thanh toán mỗi kỳ
L : chi phí tài trợ (lãi vay)
V: vốn gốc
n: số kỳ hạn
r: lãi suất tính cho mỗi kỳ hạn
Công thức áp dụng để quy đổi ra lãi suất hiệu dụng như sau:
Trong đó :
i: lãi suất hiệu dụng/1 năm
m: số kỳ hạn thanh toán trong một năm
Ngoài ra có thể áp dựng công thức sau:
Trong đó:
i: lãi suất hiệu dụng ( 1 kỳ)
r: lãi suất kỳ thanh toán
n : số kỳ thanh toán
( Phương pháp lãi đơn (Simple Interest Method)
Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng định kỳ được tỉnh đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Còn lãi phải trả NH ở mỗi định kỳ được tính trên số tiền KH thực sự còn thiếu NH.
( Phương pháp hiện giá (Present Value Method)
Theo phương pháp này, tổng số tiền mà KH phải trả NH ở mỗi kỳ (gốc và lãi) là đều nhau. Và tiền lãi cũng được tính trên dư nợ giảm dần.
( Vấn đề phân bổ lãi vay theo thời gian: Việc phân bổ có thể được thực hiện theo định kỳ gắn liền với các kỳ thanh toán, hoặc cũng có thể được thực hiện theo quý hoặc năm tài chính. Tuy nhiên phân bổ lãi vay theo năm tài chính thường được các ngân hàng áp dụng hơn.
Các phương pháp phổ biến dùng để phân bổ lãi vay bao gồm:
( Phương pháp đường thẳng (Straight-line Method) hay còn gọi là phương pháp tỷ lệ cố định:
Theo phương pháp này, phần lãi cho vay được phân bổ ở mỗi kỳ tương ứng với tỷ trọng số tháng tính 1ãi trong kỳ đó so với toàn bộ số tháng tính lãi của thời hạn vay.
( Phương pháp tỷ suất lợi tức hiệu dụng (Effeđive Yield Method):
Phương pháp này còn gọi là phương pháp quy tắc 78 . Đây là phương pháp phổ biển nhất trong việc hạch toán phân bổ lãi của các khoản cho vay trả góp.
( Phương pháp lãi (Interest Method) :
Theo phương pháp này, trước hết lãi suất cho vay được quy đổi ra thành lãi suất hiệu dụng. Sau đó, lãi suất hiệu dụng này được áp dụng phương pháp hiện giá để tính phần lãi phân bổ cho kỳ đó
( Vấn đề trả nợ trước hạn :
- Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp lãi đơn và phương pháp hiện giá thì yến đề rất đơn giản, người đi vay chỉ phải thanh toán toàn bộ số vốn gốc còn thiếu và tiền lãi của kỳ hạn hiện tại cho NH.
- Nếu tiền trả góp được tính theo phương pháp gộp thì vấn đề phức tạp hơn. Vì theo phương pháp này, lãi được tính trên cơ sở giả định rằng tiền vay sẽ được KH trả hết cho đến khi kết thúc hợp đồng. Vậy nên nếu KH trả nợ trước hạn thì thời hạn nợ thực tế sẽ khác với thời hạn nợ giả định ban đầu. Như vậy số tiền lãi thực sự phải trả cũng có sự thay đổi. Phương pháp áp dụng phổ biến nhất là phương pháp 78.
( CVTD phí trả góp (Coninstallment Consumer Loan)
Tiền vay trả được KH thanh toán cho NH một lần khi đáo hạn. Hình thức cho vay này chỉ phù hợp với các khoản cho vay có giá trị nhỏ và thời hạn ngắn
( CVTD tuần hoàn (Revolving Consumer Credit)
Là các khoản CVTD trong đó NH cho phép KH sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, KH được NH cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
+ Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh
+ Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh
+ Lãi được tính trên cơ sở dư nợ bình quân
1.3.3 Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ.
( CVTD gián tiếp (Indirect Consumer Loan)
CVTD gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng.
(1) NH và công ty bán lẻ ký hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng NH đưa ra các điều kiện về đối tượng KH bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại TS bán chịu.
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký hợp đồng mua bán chịu hàng hoá.
Thông thường người mua hàng phải trả trước một phần giá trị TS
(3) Công ty bán lẻ giao hàng cho người tiêu dùng
(4) Công ty bán lẻ bán cho NH bộ chứng từ hàng hoá bán chịu
(5) NH thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho NH
Để thích ứng với từng đối tượng KH, NH đưa ra các phương thức khác nhau trong kỹ thuật cho vay gián tiếp:
( Tài trợ truy đòi toàn bộ: theo phương thức này, khi bán cho NH các khoản nợ mà người tiêu dừng đã mua chịu, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho NH toàn bộ các khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu dùng không thanh toán cho NH.
( Tài trợ truy đòi hạn chế : theo phương thức này trách nhiệm của công ty bán lẻ đối với các khoản nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã được thoả thuận giữa NH với công ty bán lẻ.
- Công ty bán lẻ phải chịu trách nhiệm thanh toán một phần nợ trong trường hợp:
* Nếu người mua chịu không đủ tiền trả trước một số tiền nhất định
* Không đủ các tiêu chuẩn tín dụng do NH đề ra
- Công ty bán lẻ cam kết chịu trách nhiệm cho toàn bộ số nợ đã bán chịu cho đến khi NH thu hồi được một số lượng các khoản nợ nhất định đúng hạn.
- Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn theo một tỷ tệ nhất định so với tổng số nợ trong một thời hạn nhất định
- Toàn bộ trách nhiệm thanh toán nợ của công ty bán lẻ được giới hạn trong phạm vi số tiền dự phòng ký gửi tại NH. Thường số tiền dự phòng được trích ra từ chênh lệch giữa chi phí tài trợ mà công ty bán lẻ tính cho người mua chịu và chi phí tài trợ mà NH tính cho công ty bán lẻ. Đây là trường hợp được các NH áp dụng phổ biến nhất.
( Tài trợ miễn truy đòi:
Theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ cho NH, công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc chúng có được hoàn trả hay không. Phương thức chứa đựng rủi ro cao cho NH nên chi phí tài trợ thường được NH tính cao hơn so với các phương thức nói trên và các khoản nợ được mua cũng được kén chọn rất kỹ. Ngoài ra, chỉ những công ty bán lẻ rất được NH tin cậy mới được áp dụng phương thức này.
( Tài trợ có mua lại:
Khi thực hiện CVTD gián tiếp theo phương thức miễn truy đòi, hoặc truy đòi một phần, nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả nợ thì NH thường phải thanh lý TS để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước thì NH có thể bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán, kèm với TS đã được thụ đắc trong một thời hạn nhất định
Ưu - nhược điểm của CVTD gián tiếp
- Ưu điểm:
( Cho phép NH dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng
( Giảm các chi phí xét duyệt hơn so với cho vay trực tiếp
( Rất phù hợp với cách thức mua hàng lâu bền, giá trị lớn với cả người mua (mua hàng trước khi có đủ tiền) và với cả người bán hàng (khi không có đủ khả năng tài chính giữ tất cả các tích trái của họ)
( Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với KH và các hoạt động NH khác
( Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ lốt, công ty có vốn tự có ròng lớn, CVTD gián tiếp an toàn hơn CVTD trực tiếp. Bởi vì đảm bảo của khoản vay tỏ ra vững chắc hơn khi có người bán ký hậu trên chứng từ hoặc kỳ phiếu và người bán hàng cũng chịu trách nhiệm giám sát các khoản cho vay trong một giới hạn nào đó (như theo dõi các tài khoản không trả đúng hạn, việc tái sở hữu, bán hàng hoá tái sở hữu . . . ) làm cho chi phí NH giảm xuống.
- Nhược điểm:
( NH không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu đùng đã được bán chịu, do đó các khả năng lừa đảo, giả mạo và xuyên tạc nhiều hơn so với vay trực tiếp.
( Thiếu sự kiểm soát của NH khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa.
( Trong quá trình thực hiện việc trả góp, xảy ra không ít trường hợp người mua trả lại hàng hoá cho người bán (khi họ thấy không thoả mãn hoặc không có khả năng chi trả) - tình huống này thường không xảy ra đối với cho vay trực tiếp. Những khoản tranh chấp này ảnh hưởng lớn đến kết quả tín dụng.
( CVTD trực tiếp (Direct Consumer Loan): Là các khoản CVTD trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người này.
CVTD trực tiếp thường được thực hiện qua sơ đồ sau:
(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ.
(3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
So với CVTD gián tiếp, CVTD trực tiếp có một số ưu điểm sau:
- Trong CVTD trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng là những người được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ.
- Hoạt động của nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản cho vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của những công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán cho được nhiều hàng.
- Tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa ra một cách vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của mình. Nếu người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có thể được hạn chế
- CVTD trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn so với CVTD gián tiếp.
Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh, có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng.
1.4 Lợi ích của hoạt động cho vay tiêu dùng:
Một hình thức cho vay muốn tồn tại và phát triển trong hoạt động của ngân hàng thì bản thân nó phải đem lại những lợi ích thiết thực cho những người đã tạo ra và sử dụng nó. Hình thức cho vay tiêu dùng đã xuất hiện từ lâu và cho đến nay hoạt động của nó vẫn không ngừng được các ngân hàng quan tâm phát triển, khách hàng sử dụng, Chính phủ các nước đồng tình ủng hộ.
Đối với nền kinh tế: Cho vay tiêu dùng góp phần khơi thông luồng chuyển dịch hàng hoá. Quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá nếu như không có tiêu dùng thì tất yếu sẽ bị tắc nghẽn, hàng hoá không tiêu thụ được dẫn tới doanh nghiệp bị ứ đọng vốn và đương nhiên quá trình sản xuất không thể tiếp tục. Vai trò của ngân hàng lúc này trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước khi họ tích luỹ đủ số tiền cần thiết. Khách hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá, sau đó mới có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Khi đã tiêu thụ được hàng hoá, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất và sẽ tìm tới ngân hàng để tiếp tục vay vốn. Như vậy, ngân hàng cho vay