Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (Chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay, đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu.
89 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM Giới thiệu Nhóm 05 Ngân hàng 06 Khóa 20 Nam Nguyễn Phương Duy Nguyễn Trần Thịnh Lương Trung Quý Nữ Lê Nguyễn Thanh Thúy Nguyễn Thị Hòa Huỳnh Thị Mai Mai Yến Nhi Thành viên Đề tài: TRÁI PHIẾU GVHD: TS. Thân Thị Thu Thủy Mục tiêu Xem xét thực trạng thị trường trái phiếu VN 1 Phân tích những mặt còn tồn tại 2 Tìm hiểu nguyên nhân 3 Kiến nghị giải pháp 4 Nội dung Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU Content Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU Chương 1: TRÁI PHIẾU 1. Khái niệm Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ dài hạn được ký kết giữa chủ thể phát hành (Chính phủ hay doanh nghiệp) và người cho vay, đảm bảo một sự chi trả lợi tức định kỳ và hoàn lại vốn gốc cho người cầm trái phiếu ở thời điểm đáo hạn. Trên giấy chứng nhận nợ này có ghi mệnh giá của trái phiếu và tỷ suất lãi trái phiếu. 2. Phân loại 2.1. Căn cứ chủ thể phát hành Trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương Trái phiếu kho bạc Trái phiếu đô thị Trái phiếu công ty Trái phiếu thế chấp Trái phiếu tín chấp Trái phiếu chuyển đổi Trái phiếu thu nhập Trái phiếu lãi suất chiết khấu Trái phiếu lãi suất thả nổi Trái phiếu có thể thu hồi 2. Phân loại 2.2. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên người chủ trái phiếu cả trên trái phiếu và cả trên sổ người phát hành. Người cầm giữ trái phiếu là người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ người sở hữu cả trên trái phiếu và sổ người phát hành. TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU Chương 1: THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU 1. Vai trò của thị trường trái phiếu 1.1. Đối với nền kinh tế Kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu quả. Thị trường TPCP phát triển giúp Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ. Làm cho thị trường vốn hoàn thiện và đa dạng hơn. Giúp Chính phủ thực thi có hiệu quả chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế-xã hội. 1. Vai trò của thị trường trái phiếu 1.2. Đối với doanh nghiệp Đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng một nguồn vốn ổn định và dài hạn và doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong việc xác định thời hạn vay. Doanh nghiệp không sợ bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ hạn chế trong phạm vi lãi suất TP khi phát hành. Chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành cổ phiếu, do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ phiếu. 1. Vai trò của thị trường trái phiếu 1.3. Đối với nhà đầu tư Làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính, cung cấp cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục đầu tư phù hợp với những khẩu vị rủi ro khác nhau. Đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu tư có khẩu vị đầu tư không thích mạo hiểm. 2. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu 2.1. Rủi ro lãi suất Rủi ro lãi suất là rủi ro chính mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi đầu tư trái phiếu. Các loại trái phiếu đều tiềm ẩn rủi ro lãi suất. 2.2. Rủi ro lạm phát Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Trái phiếu có lãi suất thả nổi vẫn có thể phải gánh chịu rủi ro lạm phát nếu lãi suất không phản ánh hết lạm phát. 2. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu 2.3. Rủi ro thanh khoản Khi thị trường thiếu tính thanh khoản và đặc biệt là trong điều kiện chưa có đội ngũ tạo lập thị trường làm cho nhà đầu tư khó tìm được người mua trái phiếu và khó có thể bán được với mức giá tốt nhất. 2. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu 2.4. Rủi ro tín dụng Rủi ro về khả năng thanh toán, khi tổ chức phát hành trái phiếu không đủ khả năng tài chính để hoàn trả đầy đủ, đúng hạn vốn gốc và lãi như đã cam kết với trái chủ. Rủi ro tài chính của trái phiếu công ty gắn liền với hệ số tín nhiệm của công ty, hệ số tín nhiệm càng cao thì trái phiếu càng được đánh giá an toàn. 3. Định mức tín nhiệm 3.1. Khái niệm định mức tín nhiệm Định mức tín nhiệm là đánh giá về khả năng thực hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính của một tổ chức phát hành các công cụ nợ. Gồm cả đánh giá định tính và định lượng về sức mạnh tín dụng của tổ chức phát hành. Kết quả đánh giá ĐMTN được biểu hiện dưới hình thức các ký hiệu từ A (nghĩa là ít bị vỡ nợ nhất) cho đến D (nghĩa là đã bị vỡ nợ rồi) phụ thuộc vào khả năng của người phát hành trả nợ gốc và lãi đúng hạn. 3. Định mức tín nhiệm 3.2. Nguyên tắc hoạt động của tổ chức ĐMTN Tính độc lập trong quá trình ĐMTN. Tổ chức ĐMTN phải có kỹ thuật chuyên nghiệp, đủ nguồn lực tài chính, tiếp cận các thông tin tài chính tin cậy về người phát hành, và các thủ tục hoạt động nội bộ đưa đến công tác định mức nhất quán và tin cậy. Đảm bảo tính bảo mật thông tin. 3. Định mức tín nhiệm 3.3. Sự cần thiết cho việc xây dựng hệ thống ĐMTN trong nước ĐMTN như một chứng chỉ ISO về tình trạng tài chính, sẽ giúp cho nhà phát hành tìm kiếm tài trợ từ nhiều nhà đầu tư hơn. Đối với nhà đầu tư, thông qua kết quả xếp hạng tín nhiệm nhà đầu tư có thể thẩm định được rủi ro, lựa chọn danh mục đầu tư, đưa ra quyết định đầu tư và mức lợi nhuận kỳ vọng phù hợp. 3. Định mức tín nhiệm 3.3. Sự cần thiết cho việc xây dựng hệ thống ĐMTN trong nước Hệ thống ĐMTN còn có vai trò đối với các tổ chức tín dụng ngân hàng và phi ngân hàng đánh giá làm căn cứ mở rộng quy mô cho vay một cách phù hợp cũng như chứng tỏ vị thế của mình trước trào lưu gia nhập của các NHTM nước ngoài. Đối với nhà quản lý, ĐMTN được sử dụng như một công cụ độc lập để giám sát thị trường trên cơ sở xem xét tư cách và tình trạng tài chính của các ĐV phát hành. 4. Bài học kinh nghiệm về thị trường trái phiếu ở một số nước Châu Á Sau khủng hoảng tài chính 1997-1998, các nước Châu Á nhận thấy cần phải có một thị trường vốn đa dạng hơn và đặc biệt là một thị trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn đầu tư dài hạn trong nền kinh tế. Kết cấu hạ tầng cơ sở của TTTP hiện đại, nguồn nhân lực, trình độ quản lý và tốc độ thanh toán cao, phát triển lớn mạnh TTTP trên cơ sở phát triển đồng bộ thị trường sơ cấp lẫn thứ cấp nhằm phát triển tính thanh khoản của trái phiếu. 4. Bài học kinh nghiệm về thị trường trái phiếu ở một số nước Châu Á TPCP nắm giữ vị trí chủ lực trên TTTP, hình thành lãi suất chuẩn, phản ánh cung cầu thực tế về nhu cầu vốn trên thị trường, làm cơ sở tham chiếu cho các loại lãi suất khác trên TTTC. Công khai chương trình thu hút nợ của Chính phủ, công bố lịch trình phát hành định kỳ TPCP tăng tính minh bạch (ví dụ như Malaysia, Trung quốc…). Thực hiện các biện pháp nhằm tăng tính thanh khoản như: phát hành TPCP theo lô lớn để tăng tính thanh khoản, cải thiện hệ thống thanh toán bù trừ… 4. Bài học kinh nghiệm về thị trường trái phiếu ở một số nước Châu Á Phát triển thị trường TPCT để có thể thay thế một phần thị trường cho vay của ngân hàng và hoàn toàn có khả năng giảm bớt gánh nặng cho vay của hệ thống ngân hàng. Sự gia tăng các nguồn vốn nước ngoài đổ vào đầu tư chứng khoán dựa trên uy tín quốc gia, thị trường vốn mở, tỷ giá hối đoái ổn định và tình hình ổn định kinh tế vĩ mô, thành tích tốt trong thanh toán nợ nước ngoài, tiềm năng tăng trưởng kinh tế. 4. Bài học kinh nghiệm về thị trường trái phiếu ở một số nước Châu Á Thành lập, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động các tổ chức định mức tín nhiệm. Hoàn thiện hệ thống pháp lý, phát triển và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động các tổ chức đầu tư phi ngân hàng, nâng cao hiệu quả của cơ chế và hệ thống thanh toán. Chương 2 Description of the company’s sub contents Description of the company’s sub contents THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM 1. CƠ SỞ PHÁP LÝ 1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển TT trái phiếu VN Các văn bản pháp luật liên quan đến việc phát hành và giao dịch trái phiếu xuất hiện từ đầu thập niên 90 như các quy định về phát hành trái phiếu của công ty cổ phần trong Luật công ty 1990. Nghị định 72/CP ngày 26/07/1994 của Chính phủ ban hành quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Đến năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 120/CP ngày 17/09/1994 kèm theo quy chế tạm thời về phát hành trái phiếu, cổ phiếu của Doanh nghiệp nhà nước. Trong quy chế hướng dẫn việc phát hành, mua bán, chuyển nhượng, hình thức thanh toán, lãi suất trái phiếu, quy định điều kiện để DNNN phát hành trái phiếu và các vấn đề liên quan khác. 1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển TT trái phiếu VN Năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị Định 23/CP ngày 22/03/1995 về việc phát hành trái phiếu quốc tế. Hướng dẫn việc phát hành trái phiếu huy động vốn nước ngoài cho đầu tư sản xuất kinh doanh Năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hướng dẫn về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và TTCK. Nghị định được xây dựng để chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK và tạo điều kiện kịp thời cho TTCK nước ta đi vào hoạt động. 1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển TT trái phiếu VN Năm 1999, Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/06/1999 và có hiệu lực ngày 01/01/2000 Đến năm 2000, quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ theo nghị định 72/CP ngày 26/07/1994 Quy chế phát hành TPCP đã đổi mới thể hiện qua việc áp dụng phương thức phát hành trái phiếu thông qua đấu thầu qua thị trường giao dịch chứng khoán tập trung và bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó còn quy định việc TPCP niêm yết, giao dịch trên TTCK và phân rõ trách nhiệm của các cơ quan có liên quan như Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước, UBCKNN, các Bộ, các ngành,… trong việc phát hành TPCP. 1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển TT trái phiếu VN Đến năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 về việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, TPCQĐP , đưa ra các quy chế về phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, TPCQĐP. Năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Nghị định đã giúp cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể tiếp cận các nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu hay các công cụ nợ, tạo lập các quy định cơ bản về quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia thị trường nợ. 1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển TT trái phiếu VN Ngày 29/06/2006 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật chứng khoán. Luật chứng khoán là bước kiện toàn hệ thống pháp lý, giúp thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng phát triển ổn định, công khai và minh bạch hơn. Chính Phủ ban hành Nghị định số 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Nghị định này được đánh giá là bước tiến lớn nhằm khơi thông nguồn vốn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Description of the company’s sub contents 2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Đánh giá chung 2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay TTTP là một bộ phận của TTCK, là một kênh huy động vốn tiềm năng cho các dự án của chính phủ và cho các dự án tư nhân. Thị trường trái phiếu Việt Nam bao gồm các hàng hoá chủ yếu là TPCP, TPCQĐP, TPDN. Thị trường còn khá sơ khai với quy mô quá nhỏ so với GDP, chỉ chiếm khoảng 16% GDP. 2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay TPCP đang "thống lĩnh" thị trường, trong khi trái phiếu của các công ty phát hành còn hạn chế: Trái phiếu công ty có quy mô khiêm tốn, chỉ hơn 3% GDP; dư nợ trái phiếu doanh nghiệp/tổng dư nợ trái phiếu của Việt Nam mới đạt 11% trong khi con số tương ứng của Thái Lan là 33%, Malaysia: 50%, Hàn Quốc là 51%. Các doanh nghiệp phát hành thường là lần đầu, chưa tạo ra một thị trường nhất định và chủ yếu vẫn là các DNNN...nhờ dựa vào uy tín. Phần lớn các doanh nghiệp phát hành trái phiếu là các doanh nghiệp đã niêm yết, hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, ngoài ra còn có các doanh nghiệp trong lĩnh vực phát điện, đóng tàu, giao thông, dệt may, và các ngân hàng. 2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay TPCP phát hành với khối lượng và giá trị niêm yết lớn nên những người nắm giữ TPCP trên thị trường sơ cấp chủ yếu là các NĐT trong nước, đặc biệt là các NHTM (trừ các đợt phát hành riêng lẻ qua hệ thống Kho bạc) với 2 lý do chủ yếu là: Thứ nhất, các NĐT nước ngoài chưa quay trở lại thị trường do có sự quan ngại nhất định về sự sụt giảm giá trị của VND so với USD. Thứ hai, nhu cầu mua TPCP tăng mạnh của khối các tổ chức tín dụng (TCTD) trong nước. Chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư (thống kê kết quả đấu thầu đạt 1/3 chỉ tiêu): An toàn nhưng lợi nhuận thấp, Quy mô quá nhỏ, tính thanh khoản của các loại trái phiếu còn thấp Hệ thống cung cấp thông tin chưa đầy đủ, kịp thời. Phát hành trái phiếu quốc tế: từ năm 2005,Việt Nam phát hành thành công trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường vốn quốc tế. 2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay Năm 2011, tổng giá trị giao dịch chỉ đạt trên 73.000 tỷ đồng, bình quân 280 tỷ đồng/phiên. Giá trị giao dịch trái phiếu chính phủ trong năm 2011 lại giảm so với 2010 (tốc độ giảm là 9,88%). Nguyên nhân sự sụt giảm TPCP 2011 do tác động từ khủng hoảng nợ công châu Âu, suy thoái kinh tế Mỹ, lạm phát cao ở nhiều nước châu Á, cùng với một lượng lớn trái phiếu chính phủ đã đến hạn (hơn 50.000 tỷ đồng), bội chi ngân sách… gây áp lực lên nguồn cung trái phiếu chính phủ ở thị trường sơ cấp; lạm phát cao và chính sách tiền tệ thắt chặt đã hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư. 2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay Tổng khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành thành công đạt 65.903,8 tỷ đồng, đạt 77,5% kế hoạch năm. Khối lượng trái phiếu phát hành thành công nhiều nhất thuộc kỳ hạn 3 năm (30.117,1 tỷ đồng) và 5 năm (22.678,5 tỷ đồng). Khối lượng trái phiếu chính phủ bảo lãnh phát hành thành công đạt 14.957 tỷ đồng, trong đó, khối lượng trúng thầu kỳ hạn 3 năm và 5 năm đạt lần lượt 5.742 tỷ đồng và 4.770 tỷ đồng. Theo Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), trong tháng 2/2012, tổng khối lượng trái phiếu huy động qua đấu thầu tại HNX đạt tới 35.380 tỷ đồng, tương ứng với 85,9% khối lượng gọi thầu, tăng gấp 141% so với cùng kỳ năm 2011. 2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay Trong phiên đấu thầu đầu tiên của tháng Ba (1/3/2012), HNX cũng đã tổ chức đầu thầu huy động thành công 6.895 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ (khối lượng gọi thầu là 7.000 tỷ đồng), với các mức lãi suất huy động của kỳ hạn 3 và 10 năm xuống dưới 11%/năm. Thị trường trái phiếu đã có những tín hiệu tích cực ngay trong thời điểm đầu năm 2012 với việc huy động thành công 1.880 tỷ đồng trái phiếu Kho bạc với lãi suất từ 12,1%-12,15% cũng như sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan quản lý thị trường trong tiến trình thực hiện chương trình tái cơ cấu hàng hóa thị trường trái phiếu. Description of the company’s sub contents 2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM HIỆN NAY 2.2. Phân tích thị trường Trái phiếu VN hiện nay 2.2.1 Trái phiếu chính phủ Theo nghị định số 01/2011/NĐ-CP ban hành ngày 05/01/2011 và có hiệu lực từ ngày 20/02/2011, TPCP sẽ chính thức gồm 3 loại: - Tín phiếu kho bạc - Trái phiếu kho bạc - Công trái xây dựng Tổ quốc. Như vậy, có 03 loại TPCP đã có trước đây là: Trái phiếu công trình Trung ương, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ bị loại ra khỏi danh sách các loại trái phiếu Chính phủ. 2.2.1 Trái phiếu chính phủ Có 02 chủ thể phát hành chính TPCP: Kho bạc Nhà nước (KBNN): thường phát hành trái phiếu ngắn hạn và trung hạn Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB): thường phát hành trái phiếu trung và dài hạn. Ngoài ra, tuỳ theo nhu cầu của nền kinh tế, có những đợt phát hành không thường xuyên của TPCP có mục đích như Công trái, Trái phiếu Giáo dục, y tế,…hoặc các Trái phiếu Công trình được sự bảo lãnh của Chính phủ. 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Phương thức phát hành TPCP: Chủ yếu bằng 2 hình thức: Đấu thầu trên TTCK và Bảo lãnh phát hành. Hình thức bảo lãnh phát hành giảm dần và hình thức đấu thầu qua NHNN và đấu thầu qua sở giao dịch chứng khoán ngày càng tăng lên qua các năm, đặc biệt từ năm 2003 thị trường có thêm sự tham gia đầu tư vào TPCP của BHXH. Một số kênh phát hành khác như: đấu thầu qua ngân hàng nhà nước (NHNN), bán lẻ qua KBNN (từ đầu năm 2007 đến nay không thực hiện phát hành theo hình thức này), bảo hiểm xã hội. 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Ngày 24/09/2009: Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ chuyên biệt chính thức được HNX đưa vào vận hành và ra mắt vào tới với mục tiêu phát huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy động vốn này đối với nền kinh tế. Sự ra đời của thị trường này không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu của nền kinh tế mà còn làm đa dạng hóa các công cụ đầu tư trên thị trường vốn. 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp ĐẤU THẦU QUA TTCK: Giai đoạn từ năm 2000 - 30/06/2006: Được xem là giai đoạn hình thành và khởi động TTCK Việt Nam. Do đó, việc phát hành TP cũng như tham gia đấu thầu còn mang tính nghiên cứu, thăm dò. Thời gian này, TPCP được đấu thầu qua TTGDCK Tp.HCM. 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Giai đoạn từ 01/07/2006: SGDCK TP.HCM không tổ chức đấu thầu TPCP nữa. Theo quyết định 2276/QĐ-BTC ngày 20/6/2006 của Bộ Tài chính, nhiệm vụ này được thực hiện thống nhất tại TTGDCK Hà Nội, nay gọi tắt là HNX. Chỉ sau 3 tháng, HNX đạt được những thành công bước đầu khi tổ chức thành công 4 phiên đấu thầu TPCP theo kế hoạch huy động vốn của KBNN, huy động được 1.200 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 5 năm, đạt 80% khối lượng gọi thầu; đã có 38 loại trái phiếu đăng ký giao dịch với tổng giá trị đạt 7.027 tỷ đồng. Ðầu năm 2007, KBNN đã phát hành thành công TPCP theo lô lớn đầu tiên có tổng khối lượng tính theo mệnh giá là 1.000 tỷ đồng. Hoạt động đầu thầu TPCP tiếp tục tạo ấn tượng mạnh đến sáu tháng đầu năm 2007. Tuy nhiên, theo thống kê của HNX dấu hiệu của những phiên đấu thầu thất bại đã xuất hiện, đỉnh điểm là phiên đầu thầu TPCP đợt 16/2007 có khối lượng trúng thầu bằng 0, toàn bộ 500 tỷ đồng trái phiếu không phát hành được. 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Đến đầu năm 2008, tình hình đấu thầu TPCP vẫn ế ẩm. Nguyên nhân do tình hình lạm phát tăng cao, lãi suất huy động của các ngân hàng cũng tăng đột biến. Nhà đầu tư kỳ vọng tăng lãi suất TPCP nhưng BTC vẫn chủ trương dùng cơ chế lãi suất trần để khống chế mức tăng lãi suất trái phiếu là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc tỷ lệ trúng thầu giảm trong năm 2008. Trong năm 2009, tổng khối lượng TPCP đã phát hành chỉ được khoảng 20.000 tỉ đồng, đạt 14% kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã huy động được 470 triệu đô la Mỹ trái phiếu bằng ngoại tệ tại thị trường trong nước. Ngoài ra, tổng khối lượng TP được Chính phủ bảo lãnh đã phát hành khoảng 2.700 tỷ đồng. 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Trong năm 2010, tổng lượng TPCP phát hành thành công đạt mức khá cao, theo thống kê đến tháng 11/2010 của BC tổng kết TTTPVN 2010 tại HNTN VBMA, lượng TPCP do KBNN phát hành thành công là 68,448.6 tỷ đồng, đạt 68,45% so với kế hoạch, TPCP do VDB phát hành thành công là 36,357.3 tỷ đồng, đạt 121.19% so với kế hoạch. Năm 2011, đã có gần 82.000 tỷ đồng vốn được huy động, với lãi suất thấp hơn nhiều mặt bằng lãi suất ngân hàng. Trong đó KBNN đã huy động được 70.447 tỷ đồng. 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Năm 2012: Chính phủ đặt kế hoạch huy động 100.000 tỷ đồng trái phiếu kho bạc và 59.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ bảo lãnh (33.000 tỷ đồng do VDB phát hành, 26.000 do NH CSXH phát hành). Trong quý I/2012: đã phát hành thành công 29.220 tỷ TPKB và 21.550 tỷ TP chính phủ bảo lãnh; đạt 1/3 chỉ tiêu cả năm. Kết quả đấu thầu TPCP thời gian gần đây 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Hoạt động của thị trường TPCP tính đến tháng 5/2012 qua bảng thống kê: 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Đồ thị KL trúng thầu từ 1/7/2006 đến 8/5/2012 2.2.1 Thị trường Trái phiếu CP sơ cấp Các thành viên đấu thầu Tính đến 30/06/2008 đã có 63 thành viên đủ điều kiện tham gia đấu thầu TPCP tại HASTC. Ngoài 9 thành viên là các ngân hàng, quỹ đầu tư nước ngoài, các thành viên còn lại chủ yế