Hiện nay chất lượng giáo dục đang trởthành mối quan tâm chung của
toàn xã hội. Ngành giáo dục đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết đểnâng cao
chất lượng của giáo dục hơn bao giờhết trong tất cảnhững ngành học và bậc
học. Chính vì thếtoàn ngành phải có trách nhiệm đểnâng cao chất lượng của
giáo dục.
Đối với chương trình THPT nói chung và bộmôn Hoá Học nói riêng
hiện nay, với nội dung phong phú và sâu sắc nếu không dạy cho học sinh
phương pháp tưduy khoa học, phương pháp học tập bộmôn mà chỉtrọng
tâm truyền đạt tri thức, thì chẳng những không hoàn thành nhiệm vụphát
triển trí tuệcủa học sinh mà còn ảnh hưởng nhiều tới quá trình hình thành
nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy đòi hỏi giáo viên phải thiết lập hệ
thống các phương pháp tạo thành một mối liên hệchặt chẽ đểvận dụng
giảng dạy bộmôn hoá học, đảm bảo tính khách quan, đảm bảo chất lượng
cho quá trình dạy học đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay
Một trong những nội dung đổi mới việc kiểm tra đánh giá đo lường
chất lượng nhận thức của học sinh, một vấn đề được coi là quan trọng trong
quá trình dạy học. Lý luận dạy học đã khẳng định. Kiểm tra đánh giá trình độ
nhận thức, kỹnăng, kỹxảo của học sinh là một khâu đặc biệt quan trọng
trong dạy học nói chung và trong quá trình nhận thức của từng học sinh nói
riêng, nhằm đảm bảo được mối liên hệngược làm khép kín chu trình vận
động của quá trình dạy học, là khép kín các thông tin, thông báo và các
thông tin phản hồi. Từnhững vấn đề đòi hỏi mới trên giáo viên phải biết lựa
chọn phương pháp – phương tiện kiểm tra đánh giá sao cho phù hợp với
trình độnhận thức của học sinh, phù hợp với nội dung chương trình, phù hợp
với nền giáo dục hiện đại
Có thểnói việc kiểm tra đánh giá là bộphận không thểthiếu của quá
trình dạy học. Việc kiểm tra đánh giá trình độnhận thức, kỹnăng, kỹxảo,
phát hiện những sai sót, những lỗhổng vềkiến thức từ đó giúp giáo viên
và học sinh tự điều chỉnh hoạt động dạy học và hoạt động học tập. Qua việc
kiểm tra đánh giá học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động trí tuệnhư:
Ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá đó là cách nhận định cách đánh giá công
khai và kết quảhọc tập của mỗi học sinh
Theo cách thức thực hiện hệthống các câu hỏi của quá trình dạy học, lý
luận giáo dục xem xét kiểm tra và đánh giá nhưlà một nhóm phương pháp
dạy học. Từxưa tới nay kiểm tra đánh giá trình độnhận thức của học sinh
phổthông và thông thường sửdụng 2 hình thức thi chủyếu là: thi viết và thi
vấn đáp
Hai hình thức này chưa kiểm tra, đánh giá đầy đủkiến thức đã học của
học sinh một cách nhanh gọn, toàn diện và khách quan. Thi viết và thi vấn
đáp, phạm vi đềra còn hạn chếvềkiến thức nhất là đối với thi học kỳhoặc
kỳthi tốt nghiệp thì nội dung đềra không thâu tóm không bao quát hết
chương trình môn học và không đánh giá được toàn chương trình của học
sinh. Mặt khác, hai hình thức thi này còn hạn chếvềtính khách quan. Hơn
nữa giáo viên thường huy động kiến thức của một bài hoặc một chương đểra
đềthi, dễdẫn đến học sinh học tủ, quay cóp học lệch
Khắc phục tình trạng trên, phương châm của giáo dục hiện nay là thi
kiểm tra đánh giá nhận thức của học sinh, phải tiến hành một cách nhanh gọn
đồng thời phải tổng hợp được kiến thức của người học, rút ngắn được thời
gian chấm bài.
97 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2379 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Góp phần nghiên cứu xây dựng ngân hàng trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh giá môn Hóa học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II – Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Tính thời sự của đề tài
Hiện nay chất lượng giáo dục đang trở thành mối quan tâm chung của
toàn xã hội. Ngành giáo dục đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết để nâng cao
chất lượng của giáo dục hơn bao giờ hết trong tất cả những ngành học và bậc
học. Chính vì thế toàn ngành phải có trách nhiệm để nâng cao chất lượng của
giáo dục.
Đối với chương trình THPT nói chung và bộ môn Hoá Học nói riêng
hiện nay, với nội dung phong phú và sâu sắc nếu không dạy cho học sinh
phương pháp tư duy khoa học, phương pháp học tập bộ môn mà chỉ trọng
tâm truyền đạt tri thức, thì chẳng những không hoàn thành nhiệm vụ phát
triển trí tuệ của học sinh mà còn ảnh hưởng nhiều tới quá trình hình thành
nhân cách cho học sinh. Chính vì vậy đòi hỏi giáo viên phải thiết lập hệ
thống các phương pháp tạo thành một mối liên hệ chặt chẽ để vận dụng
giảng dạy bộ môn hoá học, đảm bảo tính khách quan, đảm bảo chất lượng
cho quá trình dạy học đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay
Một trong những nội dung đổi mới việc kiểm tra đánh giá đo lường
chất lượng nhận thức của học sinh, một vấn đề được coi là quan trọng trong
quá trình dạy học. Lý luận dạy học đã khẳng định. Kiểm tra đánh giá trình độ
nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh là một khâu đặc biệt quan trọng
trong dạy học nói chung và trong quá trình nhận thức của từng học sinh nói
riêng, nhằm đảm bảo được mối liên hệ ngược làm khép kín chu trình vận
động của quá trình dạy học, là khép kín các thông tin, thông báo và các
thông tin phản hồi. Từ những vấn đề đòi hỏi mới trên giáo viên phải biết lựa
chọn phương pháp – phương tiện kiểm tra đánh giá sao cho phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh, phù hợp với nội dung chương trình, phù hợp
với nền giáo dục hiện đại
Có thể nói việc kiểm tra đánh giá là bộ phận không thể thiếu của quá
trình dạy học. Việc kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo,
phát hiện những sai sót, những lỗ hổng về kiến thức … từ đó giúp giáo viên
và học sinh tự điều chỉnh hoạt động dạy học và hoạt động học tập. Qua việc
kiểm tra đánh giá học sinh có điều kiện tiến hành các hoạt động trí tuệ như:
Ghi nhớ, tái hiện, chính xác hoá … đó là cách nhận định cách đánh giá công
khai và kết quả học tập của mỗi học sinh
Theo cách thức thực hiện hệ thống các câu hỏi của quá trình dạy học, lý
luận giáo dục xem xét kiểm tra và đánh giá như là một nhóm phương pháp
dạy học. Từ xưa tới nay kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức của học sinh
phổ thông và thông thường sử dụng 2 hình thức thi chủ yếu là: thi viết và thi
vấn đáp
Hai hình thức này chưa kiểm tra, đánh giá đầy đủ kiến thức đã học của
học sinh một cách nhanh gọn, toàn diện và khách quan. Thi viết và thi vấn
đáp, phạm vi đề ra còn hạn chế về kiến thức nhất là đối với thi học kỳ hoặc
kỳ thi tốt nghiệp thì nội dung đề ra không thâu tóm không bao quát hết
chương trình môn học và không đánh giá được toàn chương trình của học
sinh. Mặt khác, hai hình thức thi này còn hạn chế về tính khách quan. Hơn
nữa giáo viên thường huy động kiến thức của một bài hoặc một chương để ra
đề thi, dễ dẫn đến học sinh học tủ, quay cóp học lệch
Khắc phục tình trạng trên, phương châm của giáo dục hiện nay là thi
kiểm tra đánh giá nhận thức của học sinh, phải tiến hành một cách nhanh gọn
đồng thời phải tổng hợp được kiến thức của người học, rút ngắn được thời
gian chấm bài.
Vì vậy, đòi hỏi hình thức kiểm tra đánh giá phải hệ thống, phù hợp với
nội dung chương trình môn học. Một trong những hình thức thi (kiểm tra,
2
đánh giá) làm sao phải khắc phục được những yếu điểm trên đó là thi kiểm
tra đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vì ưu điểm của phương
pháp này đảm bảo tính khách quan giữa người dạy và người học, đảo bảo
kiểm tra xuyên suốt lượng kiến thức đã học
Đối với chương trình hoá học việc vận dụng câu hỏi trắc nghiệm
khách quan vào kiểm tra đánh giá phần nào còn hạn chế và chưa được áp
dụng nhiều vào từng lớp và từng khối trong chương trình phổ thông
Chính vì lý do như vậy tôi chọn đề tài “Góp phần nghiên cứu xây
dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan dùng để kiểm tra đánh
giá môn Hoá học 12 ban KHTN trường THPT Yên Lạc II - Tỉnh Vĩnh
Phúc” làm đề tài luận văn nghiên cứu của mình
* Tính cấp thiết của đề tài
Kết quả nghiên cứu có thể làm cơ sở cho những đề xuất về chính sách
cho việc đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá vào quá trình đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá của bậc THPT nói chung và trong Hoá học
lớp 12 nói riêng
2. Mục đích của đề tài
- Xây dựng được ngân hàng câu hỏi TNKQ chuẩn cho bộ môn Hoá
Học 12 ban KHTN trong trường THPT
- Sử dụng ngân hàng câu hỏi TNKQ vào kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh
- Làm rõ sự khác biệt về đổi mới kiểm tra đánh giá bằng ngân hàng
câu hỏi TNKQ và phương pháp tự luận (viết và vấn đáp)
3. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Ngân hàng câu hỏi TNKQ có khoảng 350 -400 câu được chuẩn hoá
từ khoảng 600 câu cho kiến thức Hoá học lớp 12 ban KHTN
- Chỉ nghiên cứu thử nghiệm sử dụng vào việc kiểm tra đánh giá cho
khối lớp 12 trong trường THPT Yên Lạc 2. Tỉnh Vĩnh Phúc
3
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
* Câu hỏi nghiên cứu
- Việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ
môn Hoá Học 12 ban cơ KHTN trong chương trình THPT sẽ nảy sinh những
vấn đề gì?
- Việc sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vào đánh
giá kết quả học tập của học sinh sẽ mang lại kết quả như thế nào?
* Giả thuyết nghiên cứu
- Việc xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho bộ
môn Hoá Học 12 ban KHTN sẽ phải có đầy đủ kiến thức về đo lường và
đánh giá trong giáo dục, thiết kế thử nghiệm và đánh giá các câu hỏi trắc
nghiệm mới có thể có được ngân hàng khả dụng
- Sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan vào đánh giá
chất lượng của học sinh sẽ thu được kết quả tốt hơn khi sử dụng các phương
pháp kiểm tra theo phương pháp truyền thống (Viết, vấn đáp, tự luận...)
2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 12 trong trường THPT
- Đối tượng nghiên cứu: Kiến thức Hoá học lớp 12 ban KHTN
3. Phương pháp tiếp cận nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp chuyên
gia, phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Nhóm phương pháp lý thuyết: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết,
phương pháp nghiên cứu nguồn tài liệu.
- Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục và phần
mềm tính toán.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
- Nghiên cứu cơ sở lý luận để lựa chọn xây dựng ngân hàng câu trắc
nghiệm vào bộ ngân hàng câu hỏi trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của học sinh
- Lựa chọn xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan cho
bộ môn Hoá học 12 ban KHTN trong chương trình THPT
- Đề xuất việc sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Thử nghiệm với các câu hỏi nhằm xác định tính khả thi và hiệu quả
của đề tài.
5
B. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Ở Châu Âu và Mỹ lĩnh vực khoa học đo lường trong giáo dục phát triển
rất mạnh vào thời kì trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai (Mặc dù khoa học
đo lường trong giáo dục có thể xem như bắt đầu cách đây một thế kỉ)
Để đánh dấu một bước phát triển rất mạnh lĩnh vực đo lường trong
giáo dục có các dấu mốc quan trọng một loạt các trắc nghiệm và kĩ thuật ra
đời như:Trắc nghiệm trí tuệ Stanford-Binet xuất bản năm 1916, bộ trắc
nghiệm thành quả học tập tổng hợp đầu tiên Stanford Achievement Test ra
đời vào 1923. Với việc đưa vào chấm trắc nghiệm bằng máy của IBM năm
1935, việc thành lập National Council on Measurement in Education
(NCME) vào thập niên 1950 và ra đời Educational Testing Services (ETS)
năm 1947, một ngành công nghiệp trắc nghiệm đã hình thành ở Mỹ. Từ đó
đến nay khoa học về đo lường trong tâm lý và giáo dục đã phát triển liên tục.
Quá trình phát triển của khoa học đo lường trong giáo dục không phải không
có những phản hồi mà quá trình phát triển này phải chịu những phê bình chỉ
trích một cách thường xuyên, nhưng sự phê bình chỉ trích này không đánh đổ
được khoa học đo lường trong giáo dục, mà làm cho khoa học đo lường
trong giáo dục có cơ sở điều chỉnh những cái còn thiếu sot và khuyết điểm,
những cái chưa làm được để cho khoa học đo lường đánh giá trong giáo dục
phát triển mạnh mẽ hơn
Ngành công nghiệp trắc nghiệm ở Mỹ hiện nay ước tính mỗi năm số
lượt trắc nghiệm tiêu chuẩn hoá cỡ 1/4 tỉ và trắc nghiệm do giáo viên soạn
lên đến con số 5 tỉ. Ngành công nghiệp trắc nghiệm phát triển nhanh kéo
theo một loạt ngành liên quan phát triển theo như: ngành công nghệ thông
tin, lí thuyết đo lường trong tâm lí phát triển giáo dục. Từ đó việc nâng cao
độ chính xác trắc nghiệm ra đời đó là công nghệ trắc nghiệm nhờ máy tính
(Computer Adaptive Test – CAT)
Một số nước trên thế giới dùng ngân hàng câu hỏi TNKQ để thi tuyển
sinh đại học
6
Ở Mỹ các trường đại học không tổ chức thi tuyển mà dựa vào kết quả
của các kỳ thi do các công ty ngoài nhà nước tổ chức để xét tuyển. Có dịch
vụ thi phục vụ công việc này, đó là SAT (Scholastic Assesment Test) do
công ty ETS tổ chức, và ACT do Chương trình ACT (American College
Testing Program) triển khai. SAT cho thi 2 môn, Anh ngữ và toán, còn ACT
cho thi 4 môn, ngoài Anh ngữ và Toán còn thi thêm đọc hiểu và suy luận
khoa học.
Còn Nhật Bản, Trung tâm quốc gia về Tuyển sinh đại học" được thành
lập năm 1977 tổ chức kỳ thi tuyển chung cho hấu hết các trường đại học
công và tư của Nhật Bản hàng năm. Đề thi được soạn cho 31 môn cụ thể,
mỗi thí sinh có thể lựa chọn thi 5 môn của 5 nhóm nào đó tuỳ theo quy định
của trường đại học mà thí sinh dự định dự tuyển. Để tổ chức mỗi năm một kỳ
thi, Trung tâm này chi tiêu hàng năm cỡ 100 triệu USD.
Với Thái Lan kỳ thi tuyển sinh đại học liên kết được tổ chức cho hầu hết
các trường đại học công và tư từ hơn 30 năm nay. Với kết quả kỳ thi, thí sinh có
thể xin dự tuyển vào 5 ngành khác nhau của các trường đại học. Từ năm 1998
Thái Lan bắt đầu cải tiến kỳ thi liên kết bằng cách xét thêm điểm trung bình học
ở trường phổ thông (với trọng số 10%) và cho thi mỗi năm 2 lần.
Ở Trung Quốc từ năm 1989 tổ chức kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung
học được giao cho các địa phương, còn kỳ thi tuyển đại học được tổ chức
thống nhất trên cả lục địa Trung quốc vào đầu tháng 7 hàng năm và đề thi
chủ yếu bằng ngân hàng câu hỏi TNKQ
Còn ở nước ta khoa học về đo lường trong giáo dục ở trong tình trạng
khá lạc hậu và phát triển rất chậm. Mãi đến năm 1974 một hoạt động đáng
lưu ý là kỳ thi tú tài lần đầu tiên được tổ chức ở Miền Nam bằng phương
pháp trắc nghiệm khách quan.
Ở Miền Bắc nước ta trước đây khoa học này ít được lưu ý vì trong hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa cũ, kể cả Liên Xô, khoa học này rất kém
phát triển. Vào những năm sau 1975 ở phía Bắc nước ta có một số người có
nghiên cứu về khoa học đo lường trong tâm lý. Chỉ đến năm 1993 Bộ Giáo
dục và Đào tạo mới mời một số chuyên gia nước ngoài vào nước ta phổ biến
7
về khoa học này cũng như cử một số cán bộ ra nước ngoài học tập. Từ đó
một số trường đại học có tổ chức các nhóm nghiên cứu áp dụng các phương
pháp đo lường trong giáo dục để thiết kế các công cụ đánh giá, soạn thảo các
phần mềm hỗ trợ, mua máy quét quang học chuyên dụng (OMR) để chấm
thi. Một điểm mốc đáng ghi nhận là kỳ thi tuyển đại học thí điểm tại trường
Đại học Đà Lạt vào tháng 7 năm 1996 bằng phương pháp trắc nghiệm khách
quan mà sự thành công tốt đẹp của nó được Hội nghị rút kinh nghiệm của Bộ
Giáo dục và Đào tạo vào tháng 9 năm đó khẳng định (Kỳ thi có 7200 thí sinh
dự tuyển, 2 loại đề trắc nghiệm và tự luận được sử dụng để thí sinh tự chọn.
Có khoảng 70% lượt thí sinh chọn đề trắc nghiệm, chấm thi bằng máy
Opscan-7, trong khoảng 60 trường hợp vi phạm kỹ luật thi do quay cóp thì
chỉ có 4 thí sinh từ nhóm làm trắc nghiệm). [12]
Từ năm 1997 đến nay các hoạt động đổi mới phương pháp đo lường
và đánh giá trong giáo dục ở các trường đại học lắng xuống. Cho đến mùa thi
tuyển đại học năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo mới tổ chức kỳ thi tuyển
đại học “3 chung”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập “Cục Khảo thí và
Kiểm định chất lượng” vào ngày 18/7/2003 theo Nghị định số 85/2003/NĐ –
CP để cải tiến việc thi cử và đánh giá chất lượng các trường đại học, và
quyết định sẽ dùng phương pháp trắc nghiệm khách quan để làm đề thi tuyển
đại học vào các mùa thi 2005, 2006, 2007, 2008 và tiếp theo nữa. Đây là cơ
hội phát triển của khoa học về đo lường trong giáo dục ở nước ta trong thời
gian đã qua và sắp tới. Ngoài ra các sở giáo dục trong cả nước cũng đã thành
lập phòng khảo thí và kiểm định chất lượng. Mục đích của các phòng này lập
ra để triển khai công tác quản lí đánh giá chất lượng và đổi mới phương
pháp kiểm tra đánh giá cho các trường trong Sở. Nhưng đội ngũ cán bộ có
kinh nghiệm làm công tác kiểm tra đánh giá này hầu như không có hay có
cũng không được đào tạo cơ bản. Nên kéo theo sự kiện mở lớp đào tạo thạc
sỹ đo lường đánh giá trong giáo dục do Trung tâm đảo bảo chất lượng đào
tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục thuộc trường Đại học Quốc gia đảm
nhiệm đào tạo.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TRA - ĐÁNH GIÁ
1. Cơ sở lí luận
1.1 Một số khái niệm trong đo lường đánh giá giáo dục
Sau đây là một số khái niệm tiêu biểu
1.1.1. Đánh giá (Evaluation) trong giáo dục.
- Định nghĩa của Jean Marie De Ketele: Đánh giá có nghĩa là
+ Thu thập thông tin đủ thích hợp, có giá trị và đáng tin cậy
+ Xem xét mức độ phù hợp giữa tập hợp thông tin này với một tập
hợp các tiêu chí phù hợp với mục tiêu định ra ban đầu hay đã điều chỉnh
trong quá trình thu thập thông tin
+ Nhằm ra một quyết định
- Định nghĩa của Ralph tyler: Quá trình đánh giá chủ yếu là quá trình
xác định mức độ thực hiện các mục tiêu trong các chương trình giáo dục
- Định nghĩa của E.Beeby: Đánh giá giáo dục là sự thu thập lí giải một
cách hệ thống những bằng chứng, như một phần của quá trình, dẫn tới sự
phán xét về giá trị theo quan điểm hoạt động
- Định nghĩa của Robert F.mager: Đánh giá là việc miêu tả tình hình
của học sinh và giáo viên để dự đoán viêc phải tiếp tục làm để giúp học sinh
tiến bộ
Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy khái niệm đánh giá trong giáo
dục khi thì được các tác giả tiếp cận theo mục đích, yêu cầu, nội dung của
một phạm vi hoạt động cụ thể, khi thì được tiếp cận ở một bình diện khái
quát; khi thì được tiếp cận theo hướng nhấn mạnh của mục tiêu, khi thì được
tiếp cận theo hướng nhấn mạnh về tính chất, về quy trình [11 ]
Dựa trên những định nghĩa trên, Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc
trong cuốn “ Cơ sở lí luận của việc đánh giá chất lượng học tập của học sinh
phổ thông đã đưa ra định nghĩa sau đây “Đánh giá trong giáo dục là quá
9
trình thu thập và lí giải kịp thời, có hệ thống thông tin và hiện trạng, khả
năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục
tiêu dạy học, mục tiêu đào tạo làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp
và hành động tiếp theo”
Từ định nghĩa khái quát trên về đánh giá trong giáo dục hai tác giả đã
đưa ra định nghĩa về đánh giá kết qủa học tập của học sinh “Đánh giá kết
quả học tập là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng
thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của
tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và
nhà trường, cho bản thân học sinh để họ học tập ngày một tiến bộ hơn” [5]
1.1.2. Kiểm tra (testing)
Kiểm tra: Xem xét thực chất thực tế [17]
-Theo khoa học giáo dục: Kiểm tra là phương tiện và hình thức của
đánh giá, Trong kiểm tra người ta xác định được trước các tiêu chí và không
thay đổi chúng trong quá trình kiểm tra cũng như không quan tâm đến quyết
định đề ra Như vậy, kiểm tra là quá trình hẹp hơn đánh giá, hay nói cách
khác kiểm tra là một khâu của quá trình đánh giá [11]
Trong quá trình dạy học, kiểm tra – đánh giá là một thành phần của
quá trình dạy học, đảm nhận một chức năng lí luận dạy học cở bản, chủ yếu
không thể thiếu được trong quá trình này. Kiểm tra có 3 chức năng bộ phận
liên kết, thống nhất, thâm nhập vào nhau và bổ sung cho nhau đó là: đánh
giá, phát hiện lệch lạc và điều chỉnh. [6]
- Về mặt lí luận dạy học: kiểm tra có vai trò thông tin ngược trong dạy
học, nó cho biết những thông tin, kết quả về quá trình dạy của thầy và quá
trình của học trò để từ đó có những quyết định cho sự điều khiển tối ưu của
cả thầy lẫn trò. Học sinh sẽ học tốt hơn nếu thường xuyên được kiểm tra và
được đánh giá một cách nghiêm túc, công bằng với kĩ thuật tốt và hiệu
nghiệm. [16]
10
1.1.3. Thi (Examanition)
Thi: Làm bài theo đề đã ra nhằm kiểm tra kiến thức hoặc tay nghề để
công nhận đạt trình độ, tiêu chuẩn nào đã có sẵn [17]
Theo khoa học giáo dục: Thi cũng là kiểm tra nhưng có tầm quan
trọng hơn được dùng khi kết thúc một giai đoạn đào tạo. Nếu trong kiểm tra
Có tính chất “ tổng kết” (summative) có thể nổi trội hoặc không nổi trội so
với tính chất “quá trình”(formative) thì trong thi tính chất tổng kết luôn luôn
là tính chất nổi trội so với tính chất quá trình [11]
1.1.4. Đo: (Measurement).
Đo: Xác định độ lớn của một đại lượng, một vật bằng những dụng cụ
chuẩn xác [17]
Trong khoa học giáo dục “đo” được hiểu là so sánh một cách hệ thống
các kiến thức, kĩ năng và thái độ của một cá nhân hoặc tập thể người học đã
đạt được với một hệ thống các kiến thức, kĩ năng và thái độ được dùng làm
chuẩn. Khi sử dụng khái niệm “đo” trong đánh giá là muốn khẳng định tính
định lượng, tính chính xác, tính đơn nhất của kết quả đánh giá [11]
1.1.5.Kết quả học tập (Study achievement): có thể được hiểu theo hai cách
khác nhau tuỳ theo mục đích của việc đánh giá
+ Kết quả học tập được coi là mức độ thành công trong học tập của
học sinh, được xem xét trong mối quan hệ với mục tiêu đã xác định, chuẩn
kiến thức và kĩ năng cần đạt được mà công sức thời gian người học bỏ ra.
Theo cách định nghĩa này thì kết quả học tập là mức độ thực hiện tiêu chí
(Criterion)
+ Kết quả học tập cũng được coi là mức độ thành tích đã đạt được của
một học sinh so với các bạn cùng học, theo cách định nghĩa này thì kết quả
học tập là mức độ đạt chuẩn (norm) [11]
1.2 Mục tiêu dạy học, mục đích học tập
* Mục tiêu dạy học là những gì học sinh cần đạt được sau khi học
xong môn học, nó bao gồm:
- Hệ thông kiến thức khoa học và cả phương pháp nhận thức chung.
11
- Hệ thống các kĩ năng.
- Khả năng vận dụng vào thực tế
- Thái độ, tình cảm đối với khoa học và xã hội.
* Mục đích học tập: Khi học xong một đơn vị “kiến thức” nào đó thì
mục đích học tập của học sinh là:
- Phải lĩnh hội được nội dung kiến thức đó nhằm đáp ứng nhu cầu
nhận thức về thế giới tự nhiên và xã hội.
- Học sinh được trang bị kiến thức để đáp ứng yêu cầu về thi tuyển,
nghề nghiệp và cuộc sống.
* Mục tiêu dạy học, mục đích học tập: chính là cơ sở cho việc xác
định nội dung dạy học, phương pháp và phương tiện dạy học, do đó nó cũng
là cơ sở để lựa chọn phương pháp và phương tiện kiểm tra – đánh giá kết quả
học tập. [16]
1.3 Đánh giá kết quả học tập.
Đánh giá kết quả học tập là: quá trình đo lường mức độ đạt được của
học sinh về các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình dạy học, là mô tả một cách
định tính và định lượng: tính đầy đủ, tính đúng đắn, tính chính xác, tính vững
chắc của kiến thức, mối liên hệ của kiến thức với đời sống, các khả năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, mức độ thông hiểu, khả năng diễn đạt bằng lời
nói, bằng văn viết, bằng chính ngôn ngữ chuyên môn của học sinh … và cả
thái độ của học sinh trên cơ sở phân tích