Luật thương mại Việt Nam 1997 có hiệu lực từ ngày 01/01/1998 là một bước tiến quan trọng đã góp phần hoàn thiện khung pháp luật thương mại, mở rộng giao lưu hàng hóa, tăng trưởng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, luật thương mại là thực tiễn pháp lý khá mới mẻ ở nước ta cho nên để triển khai áp dụng luật thương mại có hiệu quả trong thực tế vẫn còn tồn tại những vấn đề cần giải quyết.
Luật thương mại đối với nước ta là một vấn đề mới, vì vậy, để đưa luật thương mại vào cuộc sống nói chung và trong lĩnh vực ngoại thương nói riêng một vấn đề quan trọng là việc tuyên truyền, phổ biến, giải thích, nghiên cứu, bình luận khoa học về luật thương mại. Công tác này cần được tiến hành một cách rộng rãi, khẩn trương trong đó cần chú trọng việc nghiên cứu, xử lý mối quan hệ giữa luật thương mại với bộ luật dân sự, với pháp lệnh hợp đồng kinh tế cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm làm cho pháp luật điều chỉnh thương mại noi chung và hoạt động ngoại thương nói riêng được vận dụng một cách thống nhất, khắc phục tình trạng chồng chéo hay bỏ trống.
Mặc dù được soạn thảo công phu trong một thời gian khá dài nhưng trong thời gian áp dụng vào thực tế, những qui định của luật thương mại về hợp đồng mua bán quốc tế hàng hóa đã thể hiện những bất cập nhất định. Do đó, Luật thương mại cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và thông lệ Quốc tế khẳng định vai trò là một đạo luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hy vọng rằng trong tương lai, Luật thương mại Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, đặc biệt là việc thông thương hàng hóa với thế giới bên ngoài ngày càng sôi động, nhộn nhịp hơn.
53 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2621 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hạn chế của các quy định về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán theo luật thương mại Việt Nam: Kiến nghị và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, với chính sách mở cửa và hội nhập, Việt Nam đang từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại. Năm 1997, Luật thương mại Việt Nam ra đời đánh dấu một bước phát triển lớn trong chặng đường xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nước ta, trong đó đáng kể nhất là các điều khoản điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài, đáp ứng nguyện vọng và mong muốn của các thương nhân Việt nam có quan hệ thương mại Quốc tế.
Ra đời năm 1997, chậm hơn Công ước viên 17 năm, chắc hẳn các quy định của Luật thương mại Việt Nam về hợp đồng mua bán Quốc tế hàng hóa đã có kế thừa và đúc rút được những bài học quan trọng từ thực tiễn thương mại Việt Nam và thế giới, nhưng những quy định này có được phù hợp với thông lệ Quốc tế hay không, có đáp ứng được trọn vẹn nguyện vọng cũng như mong muốn của các thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài khi ký kết hợp đồng mua bán Quốc tế hay không thì thực tế sẽ cho thấy một câu trả lời xác đáng nhất. Tuy nhiên, Luật thương mại của Việt Nam ra đời là một điều hết sức khích lệ, là một kết quả tất yếu của đòi hỏi do thay đổi về diện mạo và sắc thái đời sống kinh tế nước ta.
Phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam rất rộng, nhưng trong bài tiểu luận này, chúng em chỉ muốn đề cập đến vấn đề liên quan đến chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán Quốc tế hàng hóa cùng với một số kiến nghị nhỏ với mong muốn Luật thương mại Việt Nam sẽ phát huy hiệu quả đúng với mục đích ra đời của nó.
PHẦN I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
I. HOÀN CẢNH VÀ MỤC ĐÍCH RA ĐỜI
1. Hoàn cảnh ra đời của Luật thương mại Việt Nam.
Ngày 10/05/1997, một văn bản luật nhằm điều chỉnh các hành vi thương mại của thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã ra đời sau khi được nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX kì họp thứ 11 thông qua. Đó là Luật thương mại Việt Nam 1997 cùng với các hệ thống văn bản pháp luật khác, kể từ ngày 01/01/1998, Luật thương mại Việt Nam chính thức có hiệu lực và là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh một số vấn đề cơ bản liên quan đến hợp đồng mua bán ngoại thương.
Luật thương mại Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh nước ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi từ nền kinh tế sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp với nhiều đặc thù của một quốc gia có truyền thống nho giáo lâu đời. Sự phát triển kinh tế trong nước làm nảy sinh nhiều loại hình kinh doanh, trao đổi mua bán, hoạt động đầu tư mới. Cùng với nó là quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế. Các nước ngày càng tham gia sâu rộng hơn vào thương mại thế giới đã dẫn đến xu hướng quốc tế hóa pháp luật hay là việc xích lại gần nhau giữa pháp luật các nước hoặc việc nhất thể hóa pháp luật một số nước.
Kể từ năm 1986, sau khi thực hiện chính sách đổi mới, Quốc hội đã liên tiếp thông qua nhiều đạo luật quan trọng như Luật đầu tư nước ngoài (1987), Luật công ty (1990), Luật khuyến khích đầu tư trong nước (1994) ... nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cơ bản cho các hoạt động thương mại và góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Song, có thể thấy ở nước ta lúc bấy giờ cũng chưa có một môi trường pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, nhất là các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Điều này gây trở ngại lớn trong quan hệ mua bán hợp tác đầu tư giữa các nước với Việt Nam.
Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới: giai đọan công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước với nhiều thử thách của thị trường và xu thế hội nhập quốc tế vai trò của pháp luật ngày càng quan trọng, hệ thống pháp luật Việt Nam cần được đổi mới mạnh mẽ. Tính chất của nền kinh tế thị trường mở trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới đòi hỏi điều chỉnh pháp luật về hoạt động ngoại thương phải được tiến hành trên cơ sở các đạo luật có sự thống nhất đồng bộ, vừa có hiệu lực pháp lý cao vừa ổn định chứ không thể chỉ dựa trên sự điều chỉnh của các văn bản dưới luật chưa đồng bộ và thường xuyên thay đổi.
Chính vì vậy, sự ra đời của Luật thương mại Việt Nam 1997 là kết quả tất yếu của đòi hỏi do thay đổi về diện mạo và sắc thái đời sống kinh tế nước ta. Mặt khác, khi tham gia vào thương trường quốc tế, các chủ thể của Việt Nam thường gặp bất lợi khi buôn bán hợp tác đầu tư với các chủ thể nước ngoài, nơi mà hầu hết đã có một khuôn khổ pháp lý vững chắc cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Vì vậy, để đảm bảo cho các chủ thể kinh tế nước mình trong quan hệ thương mại Quốc tế cũng như nhằm tạo một môi trường pháp lý lành mạnh hoàn thiện Luật thương mại Việt Nam 1997 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1998 là cơ sở pháp lí góp phần mở rộng giao lưu thương mại với các nước trên thế giới.
2. Mục đích ra đời của Luật thương mại Việt Nam
“Luật thương mại Việt Nam 1997 là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác xã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân; phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ thương mại trên các vùng của cả nước, mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài, góp phần đẩy mạnh sản xuất cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân, góp phần tích cực nhằm đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vứng theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa , vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”. Lời nói đầu của Luật thương mại Việt Nam cũng chính là lời giải thích về mục đích ra đời của bộ luật này.
Luật thương mại Việt Nam ra đời với 3 mục tiêu cơ bản sau:
( Thương mại là hoạt động quan trọng có ảnh hưởng lớn và trực trếp đến hoạt động sản xuất và lao động, trong khi nhiều chính sách cơ bản của đảng và nhà nước về lĩnh vực này chưa được thể chế hóa bằng pháp luật, như mục tiêu của thương mại; chính sách đối với các doanh nghiệp thương mại thuộc các thành phần kịnh tế khác nhau; chính sách đối với các mặt hàng, các dịch vụ quan trọng.... Do đó, việc luật hóa các quan điểm này là mục tiêu hàng đầu của việc ban hành luật Luật thương mại.
( Nói đến hoạt động thương mại là nói đến các dạng chủ yếu của nó như: hoạt động mua bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán, đại lý mua bán hàng hóa. Các dạng hoạt động thương mại này cho đến nay vẫn chưa được qui định cụ thể đồng bộ đầy đủ. Do đó ít nhiều ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa trong nước và nước ngoài.
( Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Chúng ta đã triển khai nhiều công việc để hội nhập trong khu vực và trên thế giới, do đó đòi hỏi phải sớm ban hành những qui định thích hợp có giá trị pháp lý cao nhằm tạo thuận lợi cho sự giao lưu hàng hóa trong nước với nước ngoài làm cho pháp luật thương mại nước ta phù hợp với tập quán thương mại quốc tế, đồng thời tạo cơ sở pháplý để xử lý các quan hệ kinh tê thương nhân trong việc đàm phán song phương với các nước, các tổ chức ở khu vực và quốc tế.
II. VAI TRÒ CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. Bảo đảm quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại.
Luật thương mại của bất kỳ quốc gia nào dù trực tiếp hay gián tiếp cũng nhằm đảm bảo sự điều tiết của nhà nước đối với các hoạt động thương mại. Trong Luật thương mại Việt Nam, sự điều tiết của nhà nước đối với các hoạt động thương mại được qui định trong các Điều 6-16, 224-262.
Sự quản lý nhà nước về thương mại được cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành bao gồm: ban hành các văn bản pháp luật về thương mại, tổ chức đăng ký kinh doanh thương mại; tổ chức thông tin về thị trường; hướng dẫn tiêu dùng hợp lý; tiết kiệm...; kí kết hoặc tham gia các Điều ước Quốc tế về thương mại; đại diện và quản lý các hoạt động thương mại của Việt Nam ở nước ngoài; hướng dẫn tham gia kiểm tra việc chấp hành và thực hiện pháp luật thương mại; xử lý vi phạm pháp luật về thương mại.
2. Thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân trên lĩnh vực thương mại.
Nhằm bảo đảm lưu thông hàng hóa được thuận tiện, Luật thương mại Việt Nam qui định các quyền tự do sau đây của thương nhân trong khuôn khổ pháp luật: thương nhân đủ điều kiện theo qui định của pháp luật có quyền hoạt động thương mại trong các lĩnh vực địa bàn mà pháp luật không cấm (Điều 6, Luật thương mại), có quyền tự do kinh doanh, tự do chọn bạn hàng (Điều 6, Luật thương mại), có quyền tự do lựa chọn hình thức để giao kết hợp đồng (Điều 44, Luật thương mại), có quyền tự do xác định nội dung khác ngoài những nội dung chủ yếu của hợp đồng (Điều 50, Luật thương mại Việt Nam), có quyền sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng (Điều 57, Luật thương mại Việt Nam).
3. Thực hiện quyền bình đẳng trước pháp luật của thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong các hoạt động thương mại.
Quyền bình đẳng trước pháp luật của thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được qui định tại Điều 7, Luật thương mại Việt Nam. Đây là sự cụ thể hóa Điều 22, Hiến pháp 1992 trong các hoạt đông thương mại. Bình đẳng ở đây là các chủ thể được đối xử như nhau trước cơ quan nhà nước và trước pháp luật Việt Nam, nếu có đủ các đièu kiện có thể so sánh được với nhau. Tuy nhiên, theo Điều 10, Luật thương mại, thương nhân là doanh nghiệp nhà nước có những quyền và nghĩa vụ không giống như thương nhân là công ty, tổ hợp tác hay cá nhân. Trong kinh doanh nói chung cũng như trong hoạt động thương mại nói riêng, quyền bình đẳng thể hiện ở chỗ, các thương nhân được pháp luật đảm bảo cơ hội như nhau để tham gia cạnh tranh trong hoạt đông thương mại. Ví dụ: nếu có những điều kiện dự thầu như nhau, thương nhân đều được phép tham gia dự thầu. Nếu có đầy đủ các điều kiện kinh doanh xuất nhập khẩu, thương nhân có điều kiện tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp. Các cơ hội kinh doanh đó có được tận dụng hay không, phụ thuộc vào từng vị trí của thương nhân trên thị trường. Như vậy, bình đẳng được hiểu là bình dẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, công bằng tuyệt đối trong kinh doanh là rất khó thực hiện, vì cạnh tranh trên thị trường là phát huy các thế mạnh riêng nhằm tiếp cận, mở rộng, giành giữ thị phần nên việc chèn ép để đẩy lùi đối thủ cạnh tranh là không tránh khỏi.
4. Qui định những điều kiện đối với thương nhân trong các hoạt động thương mại
Để đảm bảo an toàn cho các quan hệ thương mại trong hoạt động thương mại, Luật thương mại quy định chặt chẽ hơn so với các quy định tương đương trong pháp luật dân sự. Ví dụ: Điều 75, Luật thương mại Việt Nam quy định bên mua có nghĩa vụ thông báo trong một thời hạn khiếu nại nhất định nếu hàng hóa không đúng theo thỏa thuận, nếu không thông báo kịp thời bên mua mất quyền khiếu nại.
III. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VỚI TƯ CÁCH LÀ NGUỒN LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA BÁN GIỮA THƯƠNG NHÂN VIỆT NAM VỚI THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI.
Ra đời trong hoàn cảnh nền kinh tế đất nước cũng như nền kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến đáng kể, Luật thương mại Việt Nam 1997 có nhiều điểm tương đồng với luật thương mại của nhiều nước có nền kinh tế thị trường. Song do sự non trẻ của nền kinh tế mà nước ta đang bước đầu xây dựng, tính định hướng XHCN và thực tiễn lập pháp trong gần 30 năm qua đã ảnh hưởng không nhỏ đến nội dung nhất là phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam.
Theo các Điều 17, Điều 4 và Điều 5 thì Luật thương mại Việt Nam có phạm vi điều chỉnh hẹp, gồm một số hoạt động sau:
( Hợp đồng mua bán giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài.
( Các dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hóa, lưu thông hàng hóa như: đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, đại lý mua bán hàng hóa, gia công quảng cáo thương mại, hội chợ triển lãm thươg mại....
Các hoạt động khác tuy cũng có tính chất kinh doanh như cho thuê xây dựng vận tải, ngân hàng, bảo hiểm... song không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật này mà có các văn bản luật khác tương ứng (Luật xây dựng, Luật hàng không, Luật hàng hải, Luật các tổ chức tín dụng....)
Ngoài ra, phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam còn hạn hẹp ở một số các loại hàng hóa. Nếu Công ước Viên 1980 liệt kê các loại hàng hóa không là đối tượng điều chỉnh của công ước viên thì Luật thương mại Việt Nam lại giới hạn các hàng hóa là đối tượng điều chỉnh của luật này, chủ yếu là các động sản máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất và tiêu dùng. Các bất động sản như nhà máy công trình xây dựng, các quyền tài sản như sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng đất, cổ phiếu, trái phiếu do có những đặc thù riêng nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam.
Tóm lại, có thể xem Luật thương mại Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để xác định địa vị pháp lý cho thương nhân hoặc điều chỉnh các hành vi thương mại nói chung. Vì Luật thương mại Việt Nam điều chỉnh một số hành vi thương mại của thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam nên đương nhiên bộ luật này cũng điều chỉnh hoạt động mua bán giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Đây cũng là một mục đích quan trọng của Luật thương mại Việt Nam 1997.
PHẦN II
CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG
I. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG.
Không phải bất kỳ lúc nào, khi một bên trong hợp đồng mua bán ngoại thương không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ những quy định trong hợp đồng đều phải chịu trách nhiệm bồi thường và chịu phạt trước bên kia. Để xác định xem một trường hợp vi phạm hợp đồng có thể quy trách nhiệm cho bên vi phạm không, ta phải căn cứ vào các yếu tố cấu thành trách nhiệm.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn khoa học pháp lý về lỗi trong quan hệ mua bán, Điều 230, Luật thương mại: "Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại" quy định bốn yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán ngoại thương, bao gồm:
1. Thụ trái có hành vi vi phạm pháp luật
Đây là căn cứ cơ bản để quy trách nhiệm, vì hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện có hiệu lực pháp luật, và sau khi được xác lập, các nghĩa vụ xuất phát từ quan hệ hợp đồng mang tính bắt buộc, nếu một bên không thi hành thì bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị quy kết trách nhiệm. Trong mua bán quốc tế hàng hóa, hành vi vi phạm pháp luật có thể là không thực hiện hợp đồng hay thực hiện không đầy đủ, thi hành không tốt. Việc người bán không giao hàng, người mua không trả tiền hàng sẽ bị coi là hành vi không thực hiện hợp đồng, và như vậy nếu hợp đồng được ký kết theo đúng quy định của pháp luật thì hành vi vi phạm hợp đồng này cũng là vi phạm pháp luật. Mặt khác, việc người bán không thực hiện đầy đủ, thực hiện không tốt hợp đồng như giao hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng không đúng phẩm chất quy cách đã thỏa thuận ... Và người mua thiếu tinh thần thiện chí trong thực hiện hợp đồng như chậm mở L/C, không chịu nhận hàng cũng bị coi là vi phạm hợp đồng. Như vậy, chỉ khi các chủ thể hợp đồng thực hiện đúng nguyên tắc chấp hành mua bán ngoại thương sau:
( Nguyên tắc thực hiện tự nguyện thực sự các cam kết.
( Nguyên tắc thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết.
( Nguyên tắc thực hiện trên cơ sở thiện chí hợp tác, hai bên cùng có lợi, đảm bảo đạo đức trong kinh doanh.
Có thực hiện đúng các nguyên tắc này thì các bên mới được coi là không vi phạm hợp đồng tức là không vi phạm pháp luật và được pháp luật bảo vệ quyền lợi chính đáng.
Luật thương mại Việt Nam quy định nghĩa vụ chứng minh vi phạm hợp đồng là của bên bị vi phạm. Ví dụ như khi người bán không giao hàng, người mua phải chứng minh việc người bán không giao hàng căn cứ vào các tài liệu văn bản có liên quan như hợp đồng mua bán đã được ký kết là căn cứ chứng minh người bán có nghĩa vụ phải giao hàng. L/C đã mở chứng minh mình đã thực hiện và sẵn sàng thực hiện hợp đồng. Các bức điện giục bên bán giao hàng, điện trả lời của người bán cam kết sẽ giao hang... Khi đó, người bán nếu muốn bác lại thì phải chứng minh mình không vi phạm hợp đồng bằng cách xuất trình biên lai chứng từ ...
2. Phải có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
Trong hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài, việc một bên “không quan tâm” và “quan tâm không đúng mức” tới việc thực hiện nghĩa vụ của mình, do đó dẫn tới vi phạm nghĩa vụ đó thì bị coi là có lỗi.
Ở đây, cụm từ “không quan tâm” được hiểu là hành vi cố ý, không thực hiện nghĩa vụ, dù biết là sai nhưng vẫn không chấp hành quy định của hợp đồng và do đó bị coi là có lỗi. Còn việc “quan tâm không đúng mức” tức là hành vi vi phạm do vô ý, do sơ suất hoặc có biết trước được hậu quả của hành vi sơ suất đó song do quá cẩu thả mà không lường trước được mức độ của hậu quả. Ví dụ như một hợp đồng mua bán ngoại thương theo điều kiện CIF có quy định là người bán phải thuê tàu chở hàng loại tàu trẻ 10 tuổi, quốc tịch tàu Nhật Bản. Song do không tìm được loại tàu theo quy định của hợp đồng, người bán tự ý thuê một con tàu mang cờ Italia để chở hàng mà không thông báo cho người mua. Đến cảng nước người mua, tàu bị phong tỏa do lệnh của chính quyền sở tại nước người mua hạ lệnh đối với tất cả các con tàu mang quốc tịch Ý. Như vậy, người bán dù đã biết trước hành vi của mình nhưng đã không lường trước được hậu quả phát sinh và lỗi này bị coi là lỗi sơ suất, do không quan tâm đúng mức.
Luật thương mại Việt Nam không quy định ai có lỗi mà lỗi được xác định theo nguyên tắc suy đoán. Khi một bên vi phạm hợp đồng thì bên kia có quyền suy đoán bên vi phạm có lỗi và vì vậy, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm. Đây là trách nhiệm suy đoán và dù lỗi cố ý hay vô ý cũng không làm tăng giảm trách nhiệm. Ví dụ như khi người bán giao hàng chậm, người mua có quyền suy đoán ngay là người bán có lỗi vì không giao hàng theo đúng thời gian thỏa thuận và như vậy, người mua có thể quy trách nhiệm cho người bán.
Khi bị quy trách nhiệm, bên vi phạm muốn thoát trách nhiệm phải chứng minh là mình không có lỗi, chừng nào không chứng minh được thì đương nhiên vẫn bị coi là có lỗi và phải chịu trách nhiệm.
3. Trái chủ bị thiệt hại vật chất, thiệt hại về tài sản hoặc các quyền có giá trị tài sản.
Đây là yếu tố cần thiết, đặc biệt cho trường hợp muốn quy trách nhiệm đòi bồi thường thiệt hại. Thông thường, thiệt hại mà trái chủ phải gánh chịu có thể là thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Song, Luật thương mại Việt Nam cũng như luật các nước thường chỉ thừa nhận những thiệt hại tài sản (thiệt hại về vật chất) mới là yếu tố để quy trách nhiệm.
* Thiệt hại về tài sản thường gồm các loại thiệt hại sau:
- Tổn thất thực tế: Là một loại thiệt hại mang tính chất thực tế, có thể tính toán được một cách cụ thể. Tổn thất thực tế gồm có:
+ giảm tài sản bằng hiện vật: như khi một bên vi phạm một nghĩa vụ nào đó làm cho tài sản của bên kia giảm sút (người bán giao hàng kém phẩm chất so với thỏa thuận làm cho bên mua không nhận được hàng đúng chất lượng do đó phải bán hạ giá hoặc phải sử dụng với mục đích khác đi...)
+ các chi phí đã chi ra và chi thêm: các chi phí đã chi ra như chi phí đàm phán, ký kết hợp đồng, chi phí mở L/C, chi phí thuê tàu mua bảo hiểm cho hàng hóa nhưng người bán không giao hàng. Các chi phí chi thêm trong quá trình thực hiện hợp đồng như chi phí bồi thường cho người thứ ba do bên bán giao chậm hàng làm cho bên mua bị phạt giao chậm, chi phí lưu kho bãi mà người bán phải trả do người mua (theo điều kiện FOB) chưa đến lấy hàng, chi phí phạt dỡ chậm mà người bán phải trả cho người cho người chuyên chở do người mua không chịu đến nhận hàng... Tất cả các khoản bị giảm sút về tài sản và chi phí đã chi và chi thêm này đều có thể quy ra giá trị vật chất cụ thể và là cơ sở cho việc đòi bồi thường thiệt hại.
- Các khoản lợi bị bỏ lỡ, các khoản thu đáng lý ra được nhận nếu bên kia thực hiện đúng hợp đồng nhưng đã không được nhận. Đây chính là những khoản lợi mất hưởng mà khi ký kết hợp đồng, các bên đều mong đợi. Những khoản lợi này dù trên thực tế nếu không có vi phạm hợp đồng, bên