Bài nghiên cứu xem xét mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá ở 12 thị
trường mới nổi khu vực Châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Kết quả bài nghiên cứu
dựa trên mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR), có phần nào khác biệt với những nghiên cứu
trước đây, rằng hiệu ứng ERPT ở các nước có nền kinh tế mới nổi luôn luôn cao hơn các
nước phát triển. Đối với thị trường mới nổi chỉ số lạm phát là một con số (đặc biệt là các
nước Châu Á), mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu và giá tiêu dùng là
thấp và không giống với các nước phát triển. Nghiên cứu này cũng tìm thấy bằng chứng
về mối tương quan chặt chẽ giữa mức độ truyền dẫn và lạm phát, phù hợp với giả thuyết
của Taylor, sau khi loại trừ phân tích hai nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ). Tóm lại, mối
tương quan giữa chính sách mở cửa nền kinh tế và truyền dẫn tỷ giá hối đoái tuy hợp lý
về mặt lý thuyết, nhưng về tính thực nghiệm thì còn thấp.
30 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1926 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá trong thị trường mới nổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Nhóm 13 - NHĐêm2 - K22
1. Tạ Thị Lê Na
2. Nguyễn Thị Tâm Thương
3. Bùi Thị Thúy Vân
HIỆU ỨNG
TRUYỀN DẪN
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
VÀO CÁC CHỈ SỐ GIÁ
TRONG
THỊ TRƯỜNG MỚI NỔI
bởi Michele Ca’ Zorzi , Elke Hahn
và Marcelo Sánchez
GVHD: TS. NGUYỂN KHẮC QUỐC BẢO
2
Nội dung
Tóm tắt 3
1. Giới thiệu 4
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước 6
3. Phương pháp nghiên cứu 10
4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu 13
5. Kết luận 18
Tài liệu tham khảo 19
Phụ lục 21
3
Tóm tắt
Bài nghiên cứu xem xét mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá ở 12 thị
trường mới nổi khu vực Châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Kết quả bài nghiên cứu
dựa trên mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR), có phần nào khác biệt với những nghiên cứu
trước đây, rằng hiệu ứng ERPT ở các nước có nền kinh tế mới nổi luôn luôn cao hơn các
nước phát triển. Đối với thị trường mới nổi chỉ số lạm phát là một con số (đặc biệt là các
nước Châu Á), mức độ truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu và giá tiêu dùng là
thấp và không giống với các nước phát triển. Nghiên cứu này cũng tìm thấy bằng chứng
về mối tương quan chặt chẽ giữa mức độ truyền dẫn và lạm phát, phù hợp với giả thuyết
của Taylor, sau khi loại trừ phân tích hai nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ). Tóm lại, mối
tương quan giữa chính sách mở cửa nền kinh tế và truyền dẫn tỷ giá hối đoái tuy hợp lý
về mặt lý thuyết, nhưng về tính thực nghiệm thì còn thấp.
Từ khóa: Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái, thị trường mới nổi
4
1. Giới thiệu
Nắm bắt được sự tác động của những thay đổi trong tỷ giá hối đoái đến các chỉ số giá là
điều rất quan trọng để đánh giá sự phù hợp của chính sách tiền tệ đối với sự biến động của
giá cả. ERPT được định nghĩa là phần trăm thay đổi giá nhập khẩu đồng nội tệ từ 1% thay
đổi trong tỷ giá giữa quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu (Goldberg và Knetter 1997). Hai
vai trò quan trọng của ERPT là khả năng dự báo lạm phát và những tác động chính sách
về nó lên chính sách tiền tệ. Về cơ bản, vai trò quan trọng nhất của ERPT là ảnh hưởng
của nó trong khả năng dự báo lạm phát, rất quan trọng đối với bất kỳ Ngân hàng Trung
ương nào trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Củng cố một đánh giá tốt của ERPT
giúp các Ngân hàng Trung ương có thể hiểu được ảnh hưởng, mức độ và thời gian của bất
kỳ cú sốc tỷ giá hối đoái thay đổi trong lạm phát. Các nghiên cứu thực nghiệm đã chứng
tỏ rằng những thay đổi trong tỷ giá hối đoái và chỉ số giá không tồn tại trong ngắn hạn.
Một nghiên cứu lý thuyết, được phát triển trong hơn ba thập niên qua, đã tìm ra nhiều
nguyên nhân khác nhau lý giải vì sao ERPT tác động đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng
là chưa hoàn toàn. Những phân tích thực nghiệm cũng đã có những minh chứng cho thấy
rằng hiệu ứng ERPT có sự khác biệt đáng kể tùy thuộc vào mỗi quốc gia. Taylor (2000)
đã đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá đối với sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ
thuộc vào tỷ lệ lạm phát.
Bài viết nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của ERPT đến giá trong 12 thị trường mới nổi ở
khu vực châu Á, Mỹ Latin, Trung và Đông Âu. Để thực hiện được điều này, chúng tôi sử
dụng chiến lược mô hình hóa cho các nước tiên tiến được phát triển bởi McCarthy (2000)
và được áp dụng bởi Hahn (2003) cho khu vực đồng Euro. Chúng tôi sử dụng mô hình
véc tơ tự hồi quy (VAR), trong đó bao gồm các biến cơ sở như biến đầu ra, tỷ giá hối
đoái, giá nhập khẩu, giá tiêu dùng, lãi suất ngắn hạn và giá dầu. Những véc tơ tự hồi quy
đều được xem là những biến nội sinh. Cú sốc tỷ giá được xác định bằng cách áp dụng mô
hình VAR đệ quy, các biến được sử dụng là các biến sai phân bậc nhất để đảm bảo tính
dừng của các biến. Chúng tôi tiến hành thực hiện phân tích độ nhạy để đưa ra thứ tự các
biến thích hợp. Chúng tôi ước lượng mô hình cho các nền kinh tế phát triển, cụ thể là khu
vực đồng Euro, Mỹ và Nhật Bản, và lấy đó để làm chuẩn cho mục đích so sánh.
Kết quả cho thấy ERPT là giảm dần theo chuỗi giá (giá nhập khẩu – giá sản xuất – giá
tiêu dùng) , cụ thể là sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu là lớn hơn giá giá
tiêu dùng. Bên cạnh đó, hiệu ứng ERPT là rất khiêm tốn (thấp) ở các nước phát triển, đặc
biệt là đối với Mỹ và giá tiêu dùng của Nhật Bản. Những cú sốc tỷ giá có vai trò không
lớn trong việc giải thích sự biến động trong CPI ở Mỹ và Anh trong cả khoảng thời gian 2
5
năm. Trong khi đó, ở Nhật Bản, vai trò của tỷ giá trong việc giải thích sự biến động của
CPI là lớn hơn.
Một vài nghiên cứu trước thì cho rằng hiệu ứng ERPT khu vực đồng Euro cao hơn Mỹ,
đối với cả giá tiêu dùng và nhập khẩu. Phân tích của chúng tôi phần nào đã phản bác lại
(trái ngược với) những nghiên cứu trước đây, rằng hiệu ứng ERPT ở các nước mới nổi
luôn luôn cao hơn các nước phát triển. Đối với các nền kinh tế mới nổi có lạm phát một
con số (hầu hết các nước Châu Á), hiệu ứng ERPT là thấp và không giống với các nước
phát triển. Tổng quát hơn, bài viết chứng minh được mối tương quan giữa hiệu ứng ERPT
và lạm phát, phù hợp với giả thuyết của Taylor đã đưa ra. Những kết quả nghiên cứu này
trở nên xác thực hơn chỉ sau khi hai nước ngoại biên (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ) được
loại trừ, bởi những khó khăn tiềm ẩn liên quan đến sự bất ổn nghiêm trọng của nền kinh tế
vĩ mô trong hai nước này. Tóm lại, mối tương quan giữa chính sách mở cửa nền kinh tế
truyền dẫn tỷ giá hối đoái tuy hợp lý về mặt lý thuyết, nhưng về tính thực nghiệm thì còn
thấp.
Bài báo sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy (VAR) để ước lương cấp độ ERPT giữa các
quốc gia khác nhau, ví dụ như khu vực đồng Euro, Mỹ và Nhật Bản thuộc nhóm tiêu
chuẩn. Những véc tơ tự hồi quy đều là các biến nội sinh. Các tài liệu đã ước tính mô hình
một phương trình hoặc hệ phương trình cho một quốc gia cụ thể, hoặc xây dựng mô hình
một phương trình cho một tập hợp các nước (ví dụ như Choudhri và Hakura, 2006, và
Mihaljek et al., 2000). Trong nghiên cứu này, chúng tôi áp dụng phương pháp tiếp cận
của chúng tôi với một số lượng đáng kể các nước thuộc ba thị trường chính mới nổi trên
thế giới, cụ thể là, châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Đồng thời, chúng tôi sử dụng
cách tiếp cận tương tự với ba nền kinh tế công nghiệp lớn, đảm bảo kết quả so sánh chéo
giữa các quốc gia. Bằng cách ước lượng mô hình cho mỗi quốc gia trong thời gian dài
nhất có thể, để ước tính được mức độ truyền dẫn chính xác nhất có thể ở mỗi quốc gia. Về
mặt này, dữ liệu để phân tích là dữ liệu theo quý và có thể so sánh cũng như phù hợp với
từng quốc gia, và sử dụng những dữ liệu có sẵn cho các thị trường mới nổi. Điều này
cũng giúp chúng ta đáp ứng những yêu cầu của một phương pháp tiếp cận dựa trên mối
tương quan của các biến để tránh bỏ sót các biến.
Sau đó chúng tôi sử dụng kết quả của quốc gia chúng tôi để kiểm tra những suy luận
thông thường rằng ERPT trong thị trường mới nổi cao hơn trong các nền kinh tế công
nghiệp và để điều tra mẫu của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá thông qua mối tương quan, theo
hướng của McCarthy (2000) và Choudhri và Hakura (2006). Dù ERPT có cao hơn hoặc
không cao hơn trong các thị trường mới nổi, thì cũng ảnh hưởng đến việc xác định cán
6
cân thương mại và lựa chọn chế độ tỷ giá của một nước. Một hiệu ứng truyền dẫn tương
đối cao cho những nước đang phát triển được xem là một cơ sở tốt để các nước đang phát
triển lựa chọn chế độ cố định hay thả nổi. Điều đó cũng rất là quan trọng bởi vì hiệu ứng
truyền dẫn thấp trong các thị trường mới nổi có thể cho rằng sức mạnh thị trường của
những doanh nghiệp trong những quốc gia này liên tục tăng và không giảm, theo xu
hướng toàn cầu hóa. Những thị trường mới nổi, với những đặc điểm riêng biệt đã làm nó
trở nên khó khăn hơn khi muốn ước lượng độ tin cậy của ERPT. Một số quốc gia Châu Á
thường xuyên theo đuổi chính sách linh hoạt nhằm mục đích kiểm soát tỷ giá. Các quốc
gia Trung và Đông Âu đã trải qua những biến đổi cơ bản của nền kinh tế trong những
năm 1990. Kết luận lại, Thổ Nhĩ Kỳ và một số quốc gia Châu mỹ Latin đã chịu ảnh
hưởng mạnh do những bất ổn kinh tế vĩ mô bởi tỷ lệ lạm phát cao và sự thay đổi tỷ giá
mạnh mẽ.
Những kết quả của chúng tôi chỉ hỗ trợ phần nào quan điểm về ERPT trong những thị
trường mới nổi cao hơn những nước phát triển ( sử dụng như một tiêu chuẩn Mỹ, khu vực
đồng Euro và Nhật). Cụ thể hơn, hiệu ứng truyền dẫn tác động đến giá tiêu dùng là khá
nhỏ. Bài viết này hỗ trợ tổng thể học thuyết của Taylor, chứng thực được mối tương quan
giữa hiệu ứng truyền dẫn và lạm phát trong thị trường mới nổi. Mối liên kết này mang ý
nghĩa thống kê để xác định những phối hợp khác nhau sau khi hai nước ngoại biên được
loại trừ. Như trong các tài liệu liên quan, có một mối tương quan yếu giữa sự sụt giảm tỷ
giá hối đoái và lạm phát xuất phát từ nghiên cứu trường hợp của những nước có nền kinh
tế mở cửa cao và những nước này chịu ít áp lực lên lạm phát sau khi sự mất giá lớn của
các đồng tiền của họ.
Phần còn lại của bài viết gồm : Phần 2 và 3 tổng quan về các nghiên cứu, mô tả phương
pháp nghiên cứu và dữ liệu của những nước mà chúng ta xét tới. Phần 4 trình bày những
kết quả thực nghiệm . Và cuối cùng là phần 5 bao gồm những kết luận chính.
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
Công trình nghiên cứu về hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào các chỉ số giá đã được
phát triển trong hơn hai thập niên qua. Xuất phát từ nhiều quan điểm khác nhau, các
nghiên cứu thực nghiệm đã chứng thực vai trò của ERPT trong nền kinh tế nhỏ và lớn.
Các nghiên cứu được tiến hành ở những nước phát triển bao gồm Anderton (2003),
Campa and Goldberg (2004), Campa et al. (2005), Gagnon và Ihrig (2004), Hahn (2003),
Ihrig et al. (2006) và McCarthy (2000). Bên cạnh đó cũng có những nghiên cứu dành cho
nền kinh tế thị trường mới nổi, trong đó bao gồm sự so sánh chéo giữa các quốc gia như
Choudhri và Hakura (2006), Frankel et al. (2005) và Mihaljek et al. (2000).
7
Theo Goldber, P.K., and M.M. Knetter (1997) hiệu ứng ERPT được định nghĩa là sự thay
đổi tỷ lệ phần trăm trong giá nhập khẩu địa phương tiền tệ do sự thay đổi 1% trong tỷ giá
hối đoái giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Có rất nhiều nghiên cứu về đặc tính của hiệu ứng ERPT. Hung, Kim và Ohno (1993) cho
thấy rằng hầu như không có bất kỳ mối tương quan giữa kích thước của quốc gia và mức
độ điều chỉnh giá xuất khẩu. Ngoài ra, Yang (1997) phát hiện hiệu ứng truyền dẫn tương
quan dương với sự khác biệt sản phẩm và âm đến tính đàn hồi của chi phí cận biên. Sau
đó, Yang (1998) phát hiện hiệu ứng là không đầy đủ, và là lớn hơn cho xuất khẩu hơn
so với nhập khẩu của Mỹ. Bổ sung ý kiến của Yang, Kardasz và Stollery (2001)
đo lường hiệu ứng ERPT tại Canada cho rằng hiệu ứng truyền dẫn khác nhau rất nhiều
giữa các ngành. Không những thế, Campa và Goldberg (2005) hiệu ứng ERPT khác
nhau rất nhiều giữa các quốc gia. Cụ thể, Choudhri và Hakura (2001) cho rằng đối với các
nước lạm phát cao, hiệu ứng ERPT cao hơn và ngược lại. Trong nghiên cứu thực nghiệm
của Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn & Marcelo Sánchez (2007) hiệu ứng ERPT là không
hoàn toàn và thấp ở các nước mới nổi có lạm phát là một con số.Thậm chí hiệu ứng
truyền dẫn của tỷ giá đến từng thành phần của chuỗi phân phối cũng rất khác nhau,
McCarthy (2000) sử dụng dữ liệu giá nhập khẩu , PPI và CPI hàng quý của 9 nước phát
triển cho thấy rằng hiệu ứng truyền dẫn là rất nhỏ, và lớn nhất về giá nhập khẩu, thứ hai
trên PPI, và sau đó chỉ số giá tiêu dùng.
Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định ERPT có khuynh hướng giảm trong những năm gần
đây. Kim (1990) cho rằng độ nhạy của giá nhập khẩu đối với các thay đổi của tỷ giá giảm
trong những năm 1980, với hành vi “định giá thị trường” với dữ liệu giá trị nhập khẩu đơn
vị hàng quý của Mỹ. An, Lian (2006), hiệu ứng ERPT ở các quốc gia là không hoàn toàn
và mức độ ngày càng giảm. Hai ông cho rằng mức độ truyền dẫn là lớn hơn trong các nền
kinh tế nhỏ có tỷ trọng nhập khẩu lớn, ít biến động trong tỷ giá và GDP, có tỷ lệ lạm phát
cao và có nhiều cú sốc trong chính sách tiền tệ. Hiệu ứng truyền dẫn lớn đối với những
nước có thị phần nhập khẩu lớn và các cú sốc tỷ giá hối đoái dai dẳng hơn. Trong dài
hạn, Hufner và Schroder (2002) và Kikuchi và Sumner (2002) cho rằng hiệu ứng
ERPT là hoàn toàn. Những nghiên cứu gần đây như Kara và Ogunc (2005) cho thấy hiệu
ứng ERPT chậm lại và giảm sau khi áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Paul Castillo,
Luis R. Maertens Odría y Gabriel Rodríguez(2011) đo lường hiệu ứng ERPT giảm đáng
kể từ khi Peru áp dụng lạm phát mục tiêu.
Theo một cách truyền thống, các nhà kinh tế đã đơn giản hóa giả thuyết rằng các sản
phẩm và dịch vụ đồng nhất ở các nước khác nhau sẽ có cùng mức giá, nghĩa là sức mua
8
tương đương (Điều kiện ngang bằng sức mua -PPP). Tuy nhiên, theo thực nghiệm cho
thấy, giả định này nhìn chung không được ủng hộ, ít nhất là trong trường hợp nghiên cứu
ở các quốc gia nhỏ, trong ngắn và trung hạn. Phù hợp với bằng chứng này, nghiên cứu lý
thuyết, được phát triển trong hơn hai thập niên qua, đã tìm ra nhiều nguyên nhân khác
nhau lý giải vì sao ERPT tác động đến giá là chưa hoàn toàn. Nghiên cứu thực nghiệm đã
chứng tỏ rằng PPP không tồn tại trong ngắn hạn. Có rất nhiều lí do khiến ngang giá sức
mua không được duy trì liên tục do bên cạnh chênh lệch về lạm phát thì tỷ giá hối đoái
còn chịu rất nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác dẫn đến mô hình lí thuyết PPP trong
thế giới thực rất khó xảy ra với những giả định hoàn hảo như không có chi phí vận
chuyển, thuế quan và hạn ngạch, cạnh tranh hoàn hảo….
Dornbusch (1987) đã chứng minh sự truyền dẫn không hoàn toàn phát sinh ở các công ty
hoạt động trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và điều chỉnh sự tăng giá để đáp
ứng với cú sốc tỷ giá. Các công ty có sức mạnh độc quyền bán các sản phẩm khác biệt, có
động cơ để bán lại với giá khác nhau tại các thị trường có sở thích khác nhau. Trong một
thị trường nhất định, quyền định giá của họ được xác định bởi mức giá mà họ tính phải
tương đối so với các đối thủ cạnh tranh của họ. Thay đổi trong tỷ giá hối đoái ảnh hưởng
đến mức giá tương đối và do đó ảnh hưởng đến sức mạnh độc quyền và do quyết định giá
của doanh nghiệp: kết quả là và hiệu ứng ERPT có thể chỉ là một phần. Burstein et al.
(2003) lại nhấn mạnh vai trò của các yếu tố đầu vào (phi thương mại) của chuỗi hàng hóa
thương mại. Burstein et al. (2005) chỉ ra vấn đề đo lường trong chỉ số CPI, đó là đã lờ đi
việc điều chỉnh chất lượng của hàng hóa thương mại khi có sự điều chỉnh lớn trong tỷ giá.
Một lý luận khác đã nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong
việc hạn chế ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ giá lên giá (Gagnon và Ihrig, 2004). Devereux
và Engel (2001) và Bacchetta và Van Wincoop (2003) đã khảo sát vai trò của giá đồng
nội tệ trong việc giảm mức độ ERPT. Sự khác biệt về chính sách tiền tệ: Hiệu ứng ERPT
cũng có thể phụ thuộc vào chính sách tỷ giá và chính sách tiền tệ của một quốc gia.
Chính sách tiền tệ ổn định hơn và tỷ lệ lạm phát thấp thấp hơn sẽ dẫn đến mức độ hiệu
ứng ERPT thấp hơn, vì ít có khả năng nhà xuất khẩu nước ngoài sẽ truyền dẫn các thay
đổi tỷ giá hối đoái (Taylor, 2000).
Chứng minh cho những lý thuyết khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm ở cả những nền
kinh tế tiên tiến và mới nổi đều cho thấy hiệu ứng ERPT là không hoàn toàn. Những
nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia, và đã đặt
ra câu hỏi về những yếu tố cơ bản nào quyết định mức độ truyền dẫn. Taylor (2000) đã
đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá đối với sự biến động của tỷ giá hối đoái phụ
thuộc vào tỷ lệ lạm phát. Lý do cho điều này liên quan đến mối tương quan giữ mức độ và
9
tính dai dẳng của lạm phát, cùng với mối tương quan giữa lạm phát và hiệu ứng truyền
dẫn. Mối tương quan thứ hai được thể hiện như sau: lạm phát càng dai dẳng, sự biến động
của tỷ giá càng ít và nhiều công ty sẽ thay đổi giá cả hàng hóa, chứ không phải tỉ suất lợi
nhuận, nên dẫn đến việc ERPT sẽ cao hơn. Vì vậy, ERPT phải cao hơn ở những nước, nơi
mà những thay đổi tỷ giá thường kéo dài (tỷ giá ổn định hơn).
Các bằng chứng từ các nghiên cứu khác nhau hỗ trợ tổng thể cho giả thuyết Taylor. Mối
tương quan giữa mức độ truyền dẫn và lạm phát dường như mạnh hơn khi nghiên cứu thị
trường mới nổi (tham khảo bảng dữ liệu trong Choudhri và Hakura, 2006). Không có gì là
đáng ngạc nhiên khi lập luận lý thuyết của Taylor trở nên ý nghĩa hơn đối với trường hợp
tỷ lệ lạm phát cao.3
Một yếu tố quan trọng khác quyết định ERPT, từ một quan điểm mang tính lý thuyết đó là
mức độ mở cửa thương mại của một nước. Những nước có nền kinh tế mở cửa cao và
chịu ít áp lực lên lạm phát (giá nhập khẩu và giá tiêu dùng) sau sự mất giá lớn của các
đồng tiền của họ. Tuy nhiên, vấn đề trở nên phức tạp hơn khi cho rằng lạm phát có thể tỷ
lệ nghịch với sự mở cửa nền kinh tế, như thực nghiệm được khám phá bởi Romer (1993)4.
Một sự thay đổi trong tỷ giá có thể được truyền trực tiếp hoặc gián tiếp đến giá cả. Kênh
truyền dẫn trực tiếp được điều khiển bởi khu vực bên ngoài nước như giá mặt hàng nhập
khẩu. Sự thay đổi trong giá nhập khẩu gần như được truyền dẫn vào giá sản xuất và tiêu
dùng của nền kinh tế nếu các nhà sản xuất tăng giá của họ phù hợp với sự tăng lên trong
giá nhập khẩu. Kênh truyền dẫn gián tiếp của tỷ giá đề cập đến cạnh tranh của hàng hóa
trên thị trường quốc tế. Một sự giảm sút trong tỷ giá làm cho sản phẩm nội địa trở nên rẻ
hơn đối với người tiêu dùng nước ngoài và hệ quả là tổng cầu và xuất khẩu sẽ tăng lên
đem đến sự tăng lên trong mức giá nội địa. Sự giảm sút trong tỷ giá về lâu dài sẽ đem đến
sự tăng lên trong mức giá còn sản lượng chỉ tăng lên tạm thời (Kahn 1987).
3 Điều đáng chú ý là hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá cũng có thể cao hơn trong thị trường mới nổi bởi vì khu vực tư có ít
các công cụ bảo vệ hơn. Trong một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, nó hàm ý rằng tỷ giá hối đoái ảnh hưởng
nhiều hơn đến hành vi định giá. Định giá thị trường được định nghĩa là sự thay đổi % trong giá sản phẩm của nước
xuất khẩu theo đồng tiền của nước xuất khẩu do một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái %. Như vậy, mức độ của định
giá thị trường lớn hơn, thì mức độ của hiệu ứng ERPT thấp hơn.
4Tác giả đã cung cấp một giải thích lý thuyết cho kết quả này, liên quan đến những khó khăn trong việc theo đuổi
các chính sách ổn định trong nền kinh tế mở, nhỏ.
10
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp
Phân tích được thực hiện bằng cách sử dụng một mô hình VAR tiêu chuẩn như trong (1):
௧ܻ = ܿ + ∅ ௧ܻିଵ + ߝ௧
ୀଵ
Với ௧ܻ là vector của biến nội sinh, c là hằng số, ∅ là ma trận hệ số tự hồi quy và ߝ௧ là quá
trình nhiễu trắng . Việc xác đinh các cú sốc cấu trúc được thực hiện bằng cách đưa những
biến được quan tâm vào một cách thích hợp và dùng phân tích Cholesky cho ma trận
phương sai của phần dư ߝ௧.
Như một điểm khởi đầu của việc phân tích, mô hình VAR sáu biến tương tự như của
McCarthy, 2000 và Hahn, năm 2003, phát triển. Mô hình VAR cơ bản áp dụng cho các
quốc gia khác nhau bao gồm chỉ số giá dầu, oilt, biến sản lượng yt, tỷ giá hối đoái et, chỉ
số giá nhập khẩu pimpt, chỉ số giá tiêu dùng cpit và lãi suất ngắn hạn it. Tỷ giá hối đoái
và hai biến giá là các biến quan trọng trong phân tích của chúng tôi. Các biến sản lượng
và chỉ số giá dầu được thêm vào để mô tả tác động đến nền kinh tế. Việc đưa lãi suất trên
thị trường tiền tệ, bao gồm cả tác động của chính sách tiền tệ, ảnh hưởng đến quan hệ
truyền dẫn.
Trong mô hình cơ sở các biến được liệt kê ở trên. Ta sử dụng phương pháp đệ quy để xác
định những cú sốc ảnh hưởng đến biến tương ứng và các biến sau và đưa ra độ trễ, nhưng
không có tác động (ảnh hưởng) tới những biến trước. Đây là phương pháp để sắp xếp các
biến theo một thứ tự thích hợp, để có 1 chuỗi những tác động. Ta tìm được biến đầu tiên