Đề tài Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại địa bàn thành phố Quy Nhơn (khảo sát tại Phường Nguyễn Văn Cừ - TP Quy Nhơn)

Trong những năm gần đây, tỉ lệ sinh đẻ giảm, điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt, tuổi thọ trung bình kéo dài, cùng với những nguyên nhân chính trị - xã hội khác khiến cho tỉ lệ người cao tuổi ngày càng gia tăng. Liên Hợp Quốc cảnh báo rằng “kỉ nguyên của người cao tuổi” sẽ nổi lên trong thế kỉ 21. Những dự báo trên đã thành hiện thực khi nhóm người cao tuổi nhất thế giới tại thời điểm năm 2005 chiếm 18% tổng dân số toàn thế giới, 24% tại các quốc gia phát triển và 15% tại các quốc gia kém phát triển. Dự kiến đến năm 2025 sẽ đạt tới 1,2 tỷ người cao tuổi chiếm khoảng 20% dân số thế giới. Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số với tốc độ ngày càng nhanh. Theo kết quả sơ bộ Tốc độ tăng dân số 2009, tỷ lệ người cao tuổi hơn 9%. Tuổi thọ bình quân chung là 72,8 tuổi. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đang tăng nhanh so sánh giữa hai cuộc Tốc độ tăng dân số 1999 và 2009, tuổi thọ bình quân của nam tăng 3,7 tuổi từ 66,5 tuổi lên 70,2 tuổi. Nữ tăng 5,5 tuổi từ 70,1 tuổi lên 75,6 tuổi. Số cụ hơn 100 tuổi tăng gấp 2 lần so với Tốc độ tăng dân số 1999 (khoảng 7.200 cụ). Theo dự báo nước ta bước vào giai đoạn già hóa dân số vào năm 2015 nhưng thực tế hiện nay là ngay từ những năm 2010. Theo phân tich và nhận định của các nhà nhân khẩu học kinh tế trong nước và ngoài nước, cơ cấu dân số Việt Nam đã bước vào giai đoạn “Cơ cấu dân số vàng” hay “cửa sổ cơ hội dân số” hoặc “dư lợi dân số”. Thông thường cơ cấu dân số của một quốc gia sẽ chuyển đổi từ cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số “Dư lợi nhân khẩu học” rồi tiếp đến cơ cấu dân số già. Dân số Việt Nam có sự chuyển đổi đặc biệt tức là vừa bước vào giai đoạn nhiều người trong tuổi lao động nhưng đồng thời cũng già hóa. Chỉ tiêu về chất lượng dân số tuy đạt mục tiêu Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đề ra, nhưng mức xuất phát điểm còn thấp về cả thể chất, trí tuệ và tinh thần. Mặc dù tuổi thọ bình quân đạt 72,8 tuổi vào năm 2009, song tuổi thọ khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và đứng thứ 116/182 nước trên thế giới. Người cao tuổi là mối quan tâm không chỉ của cá nhân, gia đình mà cả xã hội vì đây là nhóm đối tượng đặc thù – những người không còn làm việc một cách chính thức trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp. Chuyển sang hoạt động trong môi trường mới với nhiều thay đổi đòi hỏi bản thân người cao tuổi phải thích nghi, hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội. Người cao tuổi có những ưu thế về đóng góp của họ với gia đình, xã hội, về kinh nghiệp sống và khả năng tiếp tục đóng góp vào quá trình phát triển. Tuy nhiên, với đặc điểm tâm lí nổi bật của người cao tuổi là nuối tiếc tuổi trẻ, hay hoài cổ. Họ thường nhắc đến quá khứ nhiều hơn hiện tại, rất tự hào với kinh nghiệm sống đã qua của mình. Họ nhạy bén với cái mới, cái hiện đại, với sự biến động của lịch sử, các sự kiện diễn ra hàng ngày. Nhiều cán bộ viên chức sau khi về hưu, từ chỗ hết sức bận rộn với công việc nay lại rỗi rãi, không có việc gì làm, bị hụt hẫng, đồng thời lại thấy mình mất vị trí, quyền lực trong xã hội. Họ cảm thấy không còn được kính nể, trong vọng như trước đây, từ đó nảy sinh stress tâm lí. Cùng với sự suy giảm về sức khỏe, người cao tuổi nghĩ mình trở thành người thừa đối với gia đình và xã hội, mình không còn vai trò hữu ích nữa, không ai cần mình nữa. Vì vậy họ cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn nên sinh tủi phận, buồn bã. Do đó, tính tình người cao tuổi cũng thay đổi, họ trở lên cố chấp, bảo thủ, hay bám lấy cái cũ và bị gánh nặng quá khứ đè nén. Chính vì những tâm sinh lí đó mà người cao tuổi cần được sự trợ giúp, quan tâm không những từ gia đình mà cần thiết phải có sự hỗ trợ từ xã hội, chính quyền địa phương, Đảng và Nhà nước. Nhận thấy việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi hiện nay đang là vấn đề bức thiết và cân được quan tâm nên em đã chọn đề tài “Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại địa bàn thành phố Quy Nhơn (khảo sát tại Phường Nguyễn Văn Cừ - TP. Quy Nhơn)”.Trên cơ sở khảo sát và tìm hiểu, đưa ra một số giải pháp nhằm hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi tại Quy Nhơn nói riêng và người cao tuổi Việt Nam nói chung.

doc90 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 9470 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại địa bàn thành phố Quy Nhơn (khảo sát tại Phường Nguyễn Văn Cừ - TP Quy Nhơn), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN DẪN NHẬP Lí do chọn đề tài Trong những năm gần đây, tỉ lệ sinh đẻ giảm, điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt, tuổi thọ trung bình kéo dài, cùng với những nguyên nhân chính trị - xã hội khác khiến cho tỉ lệ người cao tuổi ngày càng gia tăng. Liên Hợp Quốc cảnh báo rằng “kỉ nguyên của người cao tuổi” sẽ nổi lên trong thế kỉ 21. Những dự báo trên đã thành hiện thực khi nhóm người cao tuổi nhất thế giới tại thời điểm năm 2005 chiếm 18% tổng dân số toàn thế giới, 24% tại các quốc gia phát triển và 15% tại các quốc gia kém phát triển. Dự kiến đến năm 2025 sẽ đạt tới 1,2 tỷ người cao tuổi chiếm khoảng 20% dân số thế giới. Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số với tốc độ ngày càng nhanh. Theo kết quả sơ bộ Tốc độ tăng dân số 2009, tỷ lệ người cao tuổi hơn 9%. Tuổi thọ bình quân chung là 72,8 tuổi. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam đang tăng nhanh so sánh giữa hai cuộc Tốc độ tăng dân số 1999 và 2009, tuổi thọ bình quân của nam tăng 3,7 tuổi từ 66,5 tuổi lên 70,2 tuổi. Nữ tăng 5,5 tuổi từ 70,1 tuổi lên 75,6 tuổi. Số cụ hơn 100 tuổi tăng gấp 2 lần so với Tốc độ tăng dân số 1999 (khoảng 7.200 cụ). Theo dự báo nước ta bước vào giai đoạn già hóa dân số vào năm 2015 nhưng thực tế hiện nay là ngay từ những năm 2010. Theo phân tich và nhận định của các nhà nhân khẩu học kinh tế trong nước và ngoài nước, cơ cấu dân số Việt Nam đã bước vào giai đoạn “Cơ cấu dân số vàng” hay “cửa sổ cơ hội dân số” hoặc “dư lợi dân số”. Thông thường cơ cấu dân số của một quốc gia sẽ chuyển đổi từ cơ cấu dân số trẻ sang cơ cấu dân số “Dư lợi nhân khẩu học” rồi tiếp đến cơ cấu dân số già. Dân số Việt Nam có sự chuyển đổi đặc biệt tức là vừa bước vào giai đoạn nhiều người trong tuổi lao động nhưng đồng thời cũng già hóa. Chỉ tiêu về chất lượng dân số tuy đạt mục tiêu Chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đề ra, nhưng mức xuất phát điểm còn thấp về cả thể chất, trí tuệ và tinh thần. Mặc dù tuổi thọ bình quân đạt 72,8 tuổi vào năm 2009, song tuổi thọ khỏe mạnh chỉ đạt 66 tuổi và đứng thứ 116/182 nước trên thế giới. Người cao tuổi là mối quan tâm không chỉ của cá nhân, gia đình mà cả xã hội vì đây là nhóm đối tượng đặc thù – những người không còn làm việc một cách chính thức trong mọi lĩnh vực nghề nghiệp. Chuyển sang hoạt động trong môi trường mới với nhiều thay đổi đòi hỏi bản thân người cao tuổi phải thích nghi, hòa nhập với gia đình, cộng đồng và xã hội. Người cao tuổi có những ưu thế về đóng góp của họ với gia đình, xã hội, về kinh nghiệp sống và khả năng tiếp tục đóng góp vào quá trình phát triển. Tuy nhiên, với đặc điểm tâm lí nổi bật của người cao tuổi là nuối tiếc tuổi trẻ, hay hoài cổ. Họ thường nhắc đến quá khứ nhiều hơn hiện tại, rất tự hào với kinh nghiệm sống đã qua của mình. Họ nhạy bén với cái mới, cái hiện đại, với sự biến động của lịch sử, các sự kiện diễn ra hàng ngày. Nhiều cán bộ viên chức sau khi về hưu, từ chỗ hết sức bận rộn với công việc nay lại rỗi rãi, không có việc gì làm, bị hụt hẫng, đồng thời lại thấy mình mất vị trí, quyền lực trong xã hội. Họ cảm thấy không còn được kính nể, trong vọng như trước đây, từ đó nảy sinh stress tâm lí. Cùng với sự suy giảm về sức khỏe, người cao tuổi nghĩ mình trở thành người thừa đối với gia đình và xã hội, mình không còn vai trò hữu ích nữa, không ai cần mình nữa. Vì vậy họ cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn nên sinh tủi phận, buồn bã. Do đó, tính tình người cao tuổi cũng thay đổi, họ trở lên cố chấp, bảo thủ, hay bám lấy cái cũ và bị gánh nặng quá khứ đè nén. Chính vì những tâm sinh lí đó mà người cao tuổi cần được sự trợ giúp, quan tâm không những từ gia đình mà cần thiết phải có sự hỗ trợ từ xã hội, chính quyền địa phương, Đảng và Nhà nước. Nhận thấy việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi hiện nay đang là vấn đề bức thiết và cân được quan tâm nên em đã chọn đề tài “Hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại địa bàn thành phố Quy Nhơn (khảo sát tại Phường Nguyễn Văn Cừ - TP. Quy Nhơn)”.Trên cơ sở khảo sát và tìm hiểu, đưa ra một số giải pháp nhằm hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi tại Quy Nhơn nói riêng và người cao tuổi Việt Nam nói chung. 2. Mục tiêu của đề tài Tìm hiểu về vấn đề hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi tại Thành phố Quy Nhơn. 3. Nhiệm vụ của đề tài Tìm hiểu các đặc trưng về hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi (sức khỏe – y tế, tinh thần, vật chất) ở Thành phố Quy Nhơn. Tìm hiểu những yếu tố xã hội – văn hóa của người cao tuổi như về giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp trước đây, thu nhập, … Làm rõ việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi thông qua sự giúp đỡ về: chăm sóc sức khỏe, trò chuyện thăm hỏi, sinh hoạt hàng ngày, tiền/vật dụng lớn, thực phẩm/vật dụng nhỏ, việc làm/ sản xuất kinh doanh. Đưa ra các giải pháp và định hướng đối với việc hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi. Cuối cùng, trên cơ sở phân tích và nhận định về vấn đề, luận văn đưa ra kết luận và một số kiến nghị đối với việc hỗ trợ xã hội cho người cao tuổi, nhằm nâng cao sự trợ giúp của cộng đồng và xã hội đối với việc chăm sóc sức khỏe, tinh thần cũng như vật chất cho người cao tuổi. 4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi,. Khách thể nghiên cứu là quá trình sống của người cao tuổi (có độ tuổi từ 60 trở lên). Phạm vi nghiên cứu là khảo sát tại Phường Nguyễn Văn Cừ, Thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định. 5. Các giả thuyết nghiên cứu Trên cơ sở lí luận và những lí thuyết tiếp cận đã trình bày ở trên, tác giả đưa ra các giả thuyết mà luận văn phải kiểm chứng: - Giả thuyết thứ nhất: Người cao tuổi tại Thành phố Quy Nhơn đã thiết lập cho mình một mạng lưới xã hội ở mức độ rộng hẹp nhất định, giúp họ giải quyết những khó khăn cả về vật chất và tinh thần trong cuộc sống. - Giả thuyết thứ hai: Sự hỗ trợ xã hội của người cao tuổi có sự khác nhau tùy thuộc vào: giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, thu nhập. + Về giới tính: có sự hỗ trợ xã hội khác nhau giữa cụ ông và cụ bà. + Về độ tuổi : người cao tuổi càng cao thì sự hỗ trợ xã hội tăng so với những người cao tuổi trong độ tuổi “trẻ” hơn. + Về nghề nghiệp: Người cao tuổi là hưu trí có xu hướng nhận được sự hỗ trợ xã hội nhiều hơn so với người cao tuổi thuộc nhóm nghề khác. + Về thu nhập: Người cao tuổi có thu nhập thấp nhận được sự hỗ trợ xã hội ít hơn so với những người cao tuổi có thu nhập cao. - Giả thuyết thứ ba: Người cao tuổi sống bằng lao động hiện tại được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng nhưng quy định độ tuổi được nhận trợ cấp xã hội. - Giả thuyết thứ tư: Người cao tuổi ở những điều kiện sống, hoàn cảnh sống khác nhau có sự hỗ trợ xã hội khác nhau. 6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn 6.1 Ý nghĩa lí luận Với mục đích tìm hiểu thực tế để nâng cao hiệu quả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Những thông tin thực nghiệm thu được từ thực tế sẽ đóng góp thêm vào nguồn tham khảo cho việc phân tich và nghiên cứu lí luận của xã hội học người cao tuổi ở khía cạnh hỗ trợ xã hội. Kết quả nghiên cứu cũng sẽ là nguồn tư liệu tham khảo cho nghiên cứu sau về lĩnh vực này. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Ngày nay, người cao tuổi trở thành vấn đề toàn cầu và đang là mối quan tâm của cộng đồng quốc tế bởi người cao tuổi đang ngày càng gia tăng về số lượng và đang có xu hướng tăng nhanh do tác động của 2 yếu tố: tuổi thọ bình quân tăng cũng với tiến bộ của y học và tăng trưởng kinh tế. Kéo theo đó là những vấn đề về chăm sóc sức khỏe, vấn đề tinh thần, giao thông, y tế, vui chơi – giải trí,… đối với người già cũng được quan tâm một cách toàn diện. Chăm lo cho cuộc sống người cao tuổi là một trong những nhiệm vụ quan trọng không chỉ của cá nhân, gia đình mà toàn xã hội. Vì vậy, kết quả nghiên cứu sẽ là một gợi ý để nhận thức rõ hơn về người cao tuổi hiện nay trên mọi mặt đời sống: tinh thần, vật chất, sức khỏe – y tế.Thấy được tầm quan trọng của việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi, để từ đó phát huy hơn nữa việc trợ giúp vật chất và tinh thần cho họ. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1 Phương pháp luận Phương pháp luận trong nghiên cứu luận văn này là phương pháp duy vật biện chứng. Phương pháp điều tra xã hội học cụ thể. Một số phương pháp chung: diễn dịch, quan sát, lắng nghe, phân tich, tổng hợp. 7.2 Phương pháp cụ thể và kĩ thuật điều tra 7.2.1 Thu thập thông tin 7.2.1.1 Thu thập thông tin tư liệu Thu thập những luận văn, khóa luận, sách, bài báo, bài viết trích trên các tạp chí, phương tiện truyền thông, … về vấn đề hỗ trợ xã hội và người cao tuổi. 7.2.1.2 Thu thập thông tin định lượng Phỏng vấn dựa trên phiếu thu thập ý kiến. Phiếu điều tra gồm tất cả 26 câu hỏi. Bảng hỏi được chia làm ba phần: Phần một với 5 câu hỏi về đặc điểm nhân khẩu – xã hội của đối tượng dùng để mô tả đặc điểm mẫu điều tra, đồng thời cũng là những phân tổ chính khi xử lý thông tin định lượng. Phần hai gồm 19 câu hỏi mô tả về đặc trưng hỗ trợ xã hội của người cao tuổi về mọi mặt: vật chất, tinh thần, sức khỏe – y tế. Phần ba gồm 2 câu hỏi khảo sát thêm về hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi. 7.2.1.3 Thu thập thông tin định tính Nhằm làm rõ hơn những nội dung liên quan tới việc hỗ trợ xã hội đối với người cao tuổi, tôi tiến hành phương pháp thu thập thông tin định tính thông qua phỏng vấn sâu. Cụ thể là phỏng vấn sâu 6 người cao tuổi trong mẫu dựa vào những đặc điểm giới tính và nghề nghiệp: 3 cụ ông/ cụ bà là hưu trí, 3 cụ ông/ cụ bà là dân thường. Bên cạnh đó, phương pháp quan sát cũng được thực hiện nhằm tìm hiểu trực tiếp sinh hoạt và các mối quan hệ diễn ra trong gia đình và cộng đồng của người cao tuổi. 7.2.2 Phương pháp chọn mẫu Trong điều kiện hạn chế trước số lượng người cao tuổi khá lớn trên địa bàn thành phố, trước tiên áp dụng phương pháp chọn mẫu điển hình. Phường Nguyễn Văn Cừ với đặc trưng có dân số đông nhất so với các phường với diện tich 143 ha có 2.667 hộ với 12.105 nhân khẩu, dân tộc Kinh chiếm trên 11.000, có 587 tín đồ tôn giáo. Đi vào cụ thể trong phường, mẫu điều tra lại một lần nữa ấn định theo mẫu điển hình. Cụ thể, chon 3 khu vực 1, 3, 8. Trong mỗi khu vực chọn người cao tuổi theo mẫu ngẫu nhiên. Tổng số mẫu được chọn là 130 người, trong đó khu vực 1 là 35 người, khu vực 3 là 40 người và khu vực 8 là 55 người. 7.2.3 Phương pháp xử lí thông tin 7.2.3.1 Tư liệu thu thập được Về thông tin tư liệu: Tất cả những thông tin thu thập được, tổng thuật hoặc lược thuật theo những chu đề: Tổng quan tình hình nghiên cứu, xác lập một số lí thuyết, khái niệm làm cơ sở lí luận, xây dựng giả thuyết nghiên cứu. Tiếp theo, mô tả bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội thành phố Quy Nhơn, mô tả chân dung người cao tuổi trong mẫu nghiên cứu, mở đầu cho nghiên cứu thực nghiệm, nối tiếp xử lí thông tin định tính, định lượng. 7.2.3.2 Thông tin định lượng Sau khi thu thập thông tin, xử lí bảng hỏi bằng cách thống kê, xét mối tương quan trong các câu hỏi, để từ đó có một kết luận chính xác nhất. 7.2.3.3 Thông tin định tính Các thông tin thu được tôi phân loại, chọn lọc dưới dạng trích dẫn từ các biên bản gỡ băng hay báo cáo quan sát kết hợp với những thông tin định lượng số liệu thồng kê để dẫn giải và phân tich vấn đề. B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ HỖ TRỢ XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI 1.Khái quát tình hình nghiên cứu vấn đề 1.1 Người cao tuổi trên thế giới Theo thống kê, thế giới hiện có 497 triệu, chiếm gần 2/3 NCT sống ở các nước nghèo và khoảng hơn 180 triệu người sống trong cảnh nghèo khó. Theo dự báo, đến năm 2045, số người trên 60 tuổi trên thế giới sẽ nhiều hơn số trẻ em dưới 14 tuổi. Ở các nước trung bình và kém phát triển, hơn 50% người trên 60 tuổi vẫn làm việc, chủ yếu ở các thành phần phi chính thức. Thế giới cũng đang chứng kiến ¾ người cao tuổi sống trong các khu vực bị ảnh hưởng bởi thiên tai và biến đổi khí hậu; 2/3 số NCT bị bệnh kinh niên sống ở các nước tủng binh và kém phát triển. Ở nhiều nước Châu Phi, NCT là người chăm sóc chủ yếu đối với 40% người bị HIV/AIDS hoặc trẻ em bị mồ côi do AIDS. Trong những thế kỷ qua, sự gia tăng người cao tuổi trong tổng số dân số toàn cầu là vấn đề đáng quan tâm. Trong thế kỷ này, nó đặt ra những thách thức lớn nhưng cũng không ít cơ hội. Hàng triệu người cao tuổi ở các nước phát triển trung bình và thu nhập thấp đang đối mặt với những vấn đề về nghèo đói và bệnh tật. Tuy vậy, các chính sách phát triển quốc tế và các hoạt động thường không bao gồm người cao tuổi. Chương trình phát triển Thiên niên kỷ không trực tiếp liên quan đến tuổi già. Trong khi cam kết giảm tỷ lệ người cực nghèo xuống 50% vào năm 2015, người cao tuổi hầu như dùng lại ở nửa còn lại của người nghèo. Khi nói về chăm sóc sức khoẻ, người cao tuổi vừa là người tự chăm sóc mình, lại vừa là những người chăm sóc người khác. Sự gia tăng “người cao tuổi già” là thách thức lớn, đặc biệt đối với gia đình và cộng đồng. Đồng thời, nhiều người cao tuổi phải chăm sóc cháu do bố mẹ các em ra thành thị làm việc kiếm tiền hoăc bệnh tật-chết do HIV/AIDS hay các bệnh liên quan. Ở các nước có thu nhập trung bình và thấp, hàng triệu người cao tuổi sống dưới mức nghèo đói, phần lớn họ không có nghỉ hưu. Họ không có cả lương hưu tối thiểu, phải làm việc để đảm bảo cuộc sống và thường làm những công việc không an toàn, được trả công thấp đến khi họ không thể làm việc được nữa hoặc bệnh tật, ốm đau. Những người không làm việc được phải sống trong cảnh bần cùng. Khủng hoảng kinh tế thế giới, dẫn đến sự tăng giá cả sinh hoạt, thức ăn, giao thông và nhà ở…làm tồi tệ thêm cuộc sống của họ. Các hộ gia đình nghèo ảnh hưởng nhiều nhất đến người già và trẻ em trong gia đình. Những người cao tuổi trong gia đình phải chăm sóc trẻ em mà cha mẹ các em di cư ra thành thị kiếm tiền. Những người cao tuổi ở các nước có thu nhập trung bình và thấp không có cơ hội cải thiện cuộc sống. Vai trò của họ đối với gia đình và cộng đồng thường không được biết đến và đánh giá đúng mức. Đặc biệt, đối với những người sống ở các địa phương nghèo hoặc bị tác động xấu của môi trường thường có nguy cơ cao chịu ảnh hưởng của các cuộc xung đột hoặc các nguyên nhân khác về chính trị, môi trường không ổn định tạo ra sự thiếu an toàn cho họ. Tuy vậy, người cao tuổi toàn cầu vẫn đang thể hiện các cơ hội về tiềm năng,kinh nghiệm, khả năng sâu rộng của họ. Thu nhập và sức khoẻ ở tuổi già là mục tiêu, kể cả đối với các nước nghèo, để đảm bảo cho sự tham gia của người cao tuổi đối với xã hội. Đây cũng là một trong những lý do mà HAI đặt chủ đề cho chiến lược hành động đến năm 2015 là: “Khi người cao tuổi nói, chúng ta lắng nghe”. Đối phó với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, sự gia tăng tỷ lệ người cao tuổi, đại dịch HIV/AIDS, sự kỳ thị và bạo lực đối với người cao tuổi, Tổ chức Người cao tuổi quốc tế sẽ đáp ứng với những nhu cầu và khả năng của người cao tuổi cũng như nâng cao nhận thức của các cơ quan, tổ chức cũng như của toàn xã hội về những vấn đề sau: 1. Nâng cao năng lực người cao tuổi trong đảm bảo an sinh thu nhập. 2. Nâng cao khả năng người cao tuổi và những người trợ giúp họ trong chăm sóc sức khoẻ, các dịch vụ hỗ trợ. 3. Nâng cao khả năng để người cao tuổi tham gia tích cực vào giải quyết các trường hợp khẩn cấp và hồi phục. 4. Tạo ra các phong trào mang tính quốc tế và quốc gia trợ giúp NCT vượt qua sự kỳ thị và bảo đảm các quyền của họ. 5. Hỗ trợ mạng lưới toàn cầu của các tổ chức để các tổ chức của NCT và làm việc cho NCT có hiệu quả. Để làm được điều này, trong thời gian tới, Tổ chức NCT quốc tế dự kiến sẽ tăng 2/3 các dịch vụ trực tiếp hỗ trợ NCT và gia đình họ. Đồng thời tăng cường các hoạt động thúc đẩy cải thiện cách nhìn nhận về chế độ lương hưu, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, tăng thêm sự đáp ứng phù hợp trong những trường hợp khẩn cấp để đem lại lợi ích cho nhiều triệu người cao tuổi và tăng cường mở rộng chính sách, công tác vận động cùng với các hoạt động hỗ trợ trong các trường hợp khẩn cấp. HAI cũng đã đặt ra 15 chỉ tiêu cụ thể trong những năm tới là: - Trợ giúp để 20% NCT ở 30 nước có thu nhập trung bình và thấp được nhận trợ cấp của Chính phủ. - Các hộ gia đình có NCT ở 25 nước cải thiện được thu nhập và an ninh lương thực. - Người cao tuổi ở 15 nước có khả năng có khả năng phòng ngừa và quản lý bệnh mãn tính. - Người cao tuổi ở 20 nước có khả năng đảm bảo tiếp cận miễn phí các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thân thiện. - Các dịch vụ phù hợp phòng chống HIV/AIDS được cấp cho NCT ở 12 nước. - Người cao tuổi ở 25 nước được nhận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu phù hợp. - Người cao tuổi được nhận các dịch vụ trực tiếp của HAI và các tổ chức đối tác để phòng ngừa, đối phó và phục hồi với các tình trạng khẩn cấp. - Sẽ có 10 tổ chức nhân đạo được công nhận và đáp ứng nhu cầu trong phòng ngừa, đối phó và phục hồi với các tình trạng khẩn cấp của NCT. - Người cao tuổi tổ chức các hoạt động để thực hiện quyền nhận dịch vụ, được trợ giúp ở 25 nước. - Người cao tuổi ở 15 nước được trợ giúp để ngăn chặn và giảm thiểu sự kỳ thị liên quan đến tuổi già. - Các tổ chức chủ chốt của HAI sẽ phát triển liên minh toàn cầu gồm hàng triệu các tổ chức, cá nhân trợ giúp NCT. - 120 tổ chức, công nhận giá trị và tiêu chuẩn của HAI, hình thành mạng lưới toàn cầu chia sẻ và thừa nhận chương trình, các sáng kiến mang tính quốc gia, khu vực và quốc tế. - Hoạt động ở 50 nước thể hiện sự thay đổi về luật pháp, chính sách đáp ứng quyền của NCT. - Nhận thức của Anh và 5 nước OECD về Chương trình quốc tế về NCT sẽ được truyền thông qua các cuọc vận động và chương trình đào tạo. - Tập huấn, chia sẻ thông tin và cơ hội hợp tác là những dịch vụ cơ bản của mạng lưới hỗ trợ NCT quốc tế do Ban thư ký quốc tế cung cấp. 1.2 Người cao tuổi Việt Nam Theo Bùi Thế Cường trong cuốn sách “ Trong miền an sinh xã hội – những nghiên cứu về người cao tuổi Việt Nam” xuất bản năm 2005, nghiên cứu người cao tuổi trong nghiên cứu xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 1970, các nhà y khoa là những người đầu tiên khai phá lĩnh vực nghiên cứu y học về người cao tuổi. Năm 1970, thành lập chương trình Nghiên cứu Y học Tuổi già và mười năm sau trở thành đơn vị nghiên cứu Y học Tuổi già của Bộ Y tế. Năm 1977, chương trình nghiên cứu y học người cao tuổi do Phạm Khuê chỉ đạo thực hiện cuộc khảo sát lớn đầu tiên về sức khỏe người cao tuổi trên một mẫu gồm 13.399 người từ 60 tuổi trở lên ở phía Bắc. Cuộc khảo sát tập trung cung cấp một bức tranh dịch tễ học về bệnh tật và sức khỏe của người cao tuổi miền Bắc. Tháng 9 năm 1984, Bệnh viện Việt Xô đã tiếp tục tìm hiểu sức khỏe và đời sống của người cao tuổi thông qua khảo sát các cụ nghỉ hưu Hà Nội. Vào thời điểm giữa hai thập niên 1980 và 1990, các bác sĩ lão khoa tiến hành một cuộc khảo cứu với bảng hỏi có tham khảo chương trình nghiên cứu do Tổ chức Y tế Thế giới tiến hành ở vùng Tây Thái Bình Dương, đánh dấu bước tiến về nghiên cứu người cao tuổi Việt Nam trong lỗ lực hội nhập thế giới. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết người cao tuổi có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, phải làm thêm nhiều việc để tăng thu nhập. Năm 1989, những nghiên cứu dân số và lao động về tuổi già bắt đầu với một báo cáo quan trọng về người cao tuổi theo yêu cầu của ESCAP được hoàn thành. Đây là báo cáo dân số học đầu tiên về tuổi già Việt Nam được giới thiệu ra quốc tế. Tiếp sau đó là những khảo sát của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về người cao tuổi, những khảo sát là công cụ quan trọng của quá trình làm chính sách. Có thể kể đến nghiên cứu của Trịnh Văn Lễ về người nghỉ hưu, tác giả chỉ ra chế độ bảo hiểm xã hội đối với người nghỉ hưu hình thành rất sớm từ 1950. Đến đầu năm 1991, Viện bảo vệ sức khỏe người cao tuổi có chủ trì một hội thảo lớn về lão khoa xã hội. Các công trình giới thiệu và được xuất bản. Đây là mốc quan trọng cho nghiên cứu xã hội học người cao tuổi. Năm 1983, trong khuôn khổ một chương trình nghiên cứu quốc gia về nhà ở, một nhóm nhà xã hội học tiến hành khảo sát thực nghiệm về đời sống người nghỉ hưu nội thành Hà Nội về các vấn đề như: Trách nhiệm gia đình, Làm thêm, Giúp đỡ gia đình, con cái, Uy tín trong gia đình, … Tiếp đó là nghiên cứu thực nghiệm về người cao tuổi tại làng An Điền (Hải Hưng) giữa năm 1991 với nhiều phát hiện mới về người cao tuổi dùng làm chỉ dẫn cho những ngh
Luận văn liên quan