Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay, chúng ta thấy rằng mâu thuẫn giữa quyền lợi giai cấp thống trị và giai cấp bị trị luôn luôn gay gắt. Mâu thuẫn đó không thể tự điều hòa được mà phải được giải quyết bằng các cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu. Dưới chế độ phong kiến, mâu thuẫn giai cấp được thể hiện môt cách rõ nét. Giai cấp thống trị thời kỳ này đã thiết lập một chế độ quân chủ chuyên chế dộc tài, tất cả quyền lực nhà nước đều tập trung vào tay nhà vua, nhằm phục vụ cho giai cấp mình, bóp nghẹt những mầm mống dân chủ náy sinh trong xã hội, cướp đi những quyền cơ bản của công dân. Cùng với sự phát triển của kinh tế và những bước tiến vượt bậc về khoa học - kỹ thuật đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, kéo theo đó là trình độ nhận thức của người dân được nâng cao và nhu cầu tự giải phóng mình ngày càng lớn, vấn đề dân chủ được đặt ra. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Nhiều cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và giành được thắng lợi, giai cấp phong kiến bị lật dổ. Nhằm đáp ứng với xu thế của thời đại và hạn chế sự độc tài nên sau khi nhà nước tư bản chủ nghĩa được thiết lập trên thế giới cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đã ra đời. Đó chính là Quốc hội.
Quốc hội ra đời nhằm khẳng định chủ quyền của nhân dân và cơ sở hợp pháp của chính quyền, đồng thời đảm bảo cho chính quyền được đảm bảo bằng pháp luật và bảo đảm sự có mặt của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của công dân và quyền con người. Quốc hội ra đời đã hạn chế được sự lộng quyền của người đứng đầu và trong quá trình hoạt động của mình đã tiến hành giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác nhằm đảm bảo cho xã hội dân chủ hơn. Như vậy, chức năng giám sát được xác định là chức năng không thể thiếu của Quốc hội nhằm đảm bảo cho Quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
24 trang |
Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 1028 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chức năng giám sát của Quốc hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN
MÔN: TỔ CHỨC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Đề tài:
“Hoàn thiện chức năng giám sát của Quốc hội Việt Nam”.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
3
NỘI DUNG
4
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
4
II. CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CHỨC NĂNG ĐÓ
6
1. Chức năng của Quốc hội Việt Nam
6
2. Mối quan hệ giữa các chức năng của Quốc hội Việt Nam
7
III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
7
1. Giám sát là gì?
7
2. Các cơ quan có quyền giám sát
8
3. Giám sát của Quốc hội
9
IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
11
1. Chủ thể giám sát
11
2. Đối tượng và phạm vi chịu sự giám sát của Quốc hội.
12
3. Nội dung giám sát của Quốc hội
13
4. Các hình thức giám sát của Quốc hội
14
5. Hậu quả pháp lý của giám sát của Quốc hội
19
V. THỰC TIỄN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
20
1. Thực tiễn
20
2. Phương hướng hoàn thiện
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
24
LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay, chúng ta thấy rằng mâu thuẫn giữa quyền lợi giai cấp thống trị và giai cấp bị trị luôn luôn gay gắt. Mâu thuẫn đó không thể tự điều hòa được mà phải được giải quyết bằng các cuộc đấu tranh giai cấp đẫm máu. Dưới chế độ phong kiến, mâu thuẫn giai cấp được thể hiện môt cách rõ nét. Giai cấp thống trị thời kỳ này đã thiết lập một chế độ quân chủ chuyên chế dộc tài, tất cả quyền lực nhà nước đều tập trung vào tay nhà vua, nhằm phục vụ cho giai cấp mình, bóp nghẹt những mầm mống dân chủ náy sinh trong xã hội, cướp đi những quyền cơ bản của công dân. Cùng với sự phát triển của kinh tế và những bước tiến vượt bậc về khoa học - kỹ thuật đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, kéo theo đó là trình độ nhận thức của người dân được nâng cao và nhu cầu tự giải phóng mình ngày càng lớn, vấn đề dân chủ được đặt ra. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trở thành một đòi hỏi cấp thiết. Nhiều cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và giành được thắng lợi, giai cấp phong kiến bị lật dổ. Nhằm đáp ứng với xu thế của thời đại và hạn chế sự độc tài nên sau khi nhà nước tư bản chủ nghĩa được thiết lập trên thế giới cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đã ra đời. Đó chính là Quốc hội.
Quốc hội ra đời nhằm khẳng định chủ quyền của nhân dân và cơ sở hợp pháp của chính quyền, đồng thời đảm bảo cho chính quyền được đảm bảo bằng pháp luật và bảo đảm sự có mặt của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của công dân và quyền con người. Quốc hội ra đời đã hạn chế được sự lộng quyền của người đứng đầu và trong quá trình hoạt động của mình đã tiến hành giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước khác nhằm đảm bảo cho xã hội dân chủ hơn. Như vậy, chức năng giám sát được xác định là chức năng không thể thiếu của Quốc hội nhằm đảm bảo cho Quốc hội hoạt động có hiệu lực và hiệu quả.
NỘI DUNG
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
Trong bộ máy nhà nước Việt Nam, quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vị trí đó được xác định trên cơ sở quy định của Hiến pháp. Ở nước CHXHCN Việt Nam tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình bằng hai hình thức cơ bản: hình thức gián tiếp và trực tiếp. Hình thức trực tiếp tạo nên nền dân chủ trực tiếp. Hình thức gián tiếp tạo nên nền dân chủ đại diện. Trong điều kiện hiện nay, dân chủ đại diện đóng vai trò quan trọng. Nội dung thực hiện nền dân chủ gián tiếp bằng cách thong qua Quốc họi và Hội đồng nhân dân các cấp.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội, vì vậy thể hiện tính đại diện nhân dân và tính quyền lực cao nhất trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ máy nhà nước.
Về cách thức thành lập, quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bầu cử đại biểu quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả nước
Về cơ cấu thành phần đại biểu, Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ. Quốc hội là sự thể hiện rõ nhất khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho trí tuệ của đất nước.
Về chức năng, nhiệm vụ, Quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước.
Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội mới có đủ thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, các vấn đề trọng đại của đất nước. Sở dĩ như vậy vì Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa là người chủ của quyền lực Nhà nước là nhân dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền biến ý chí của nhân dân thành ý chí của nhà nước, thành luật, thành các quy định chung mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế nhà nước đối với mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Với tính chất là cơ quan quyền lực cao nhất trong hệ thống các cơ quan nhà nước của nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan được hiến pháp giành cho vị trí trang trọng nhất, cơ quan đầu tiên trong toàn bộ hệ thống các cơ quan nhà nước được Hiến pháp 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân như thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; bầu miễn nhiệm, bãi nhiệm những viên chức cao cấp nhất của bộ máy nhà nước, giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan nhà nước; quốc hội biểu hiện tập trung ý chí và quyền lực của nhân dân trong phạm vi toàn quốc.
Như vậy, Quốc hội chiếm vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Không một cơ quan nhà nước nào trong bộ máy các cơ quan nhà nước của ta có được một vị trí như vậy. Sở dĩ Quốc hội có một địa vị như vậy vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc bầu ra một cách trực tiếp. Với tư cách thành lập này cộng với quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra”, là cơ sở cho quốc hội có quyền lực nhà nước cao nhất ở nước CHXHCN Việt Nam.
Việc Hiến pháp quy định như trên cũng là để nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất của nhà nước CHXHCNVN, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đúng theo quan điểm tư tuơởng của chủ nghĩa Mác-LêNin về một Nhà nước kiểu mới khác với các Nhà nước trước đây và đây cũng là đặc điểm nói lên sự khác nhau giữa mô hình tổ chức nhà nước ta, Nhà nước CHXHCN với các mô hình tổ chức nhà nước khác nhau của chế độ tư bản chủ nghĩa.
II. CHỨC NĂNG CỦA QUỐC HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CHỨC NĂNG ĐÓ
1. Chức năng của Quốc hội Việt Nam
Với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội nước ta có nhưng chức năng quan trọng sau đây:
- Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quyền lập hiến và lập pháp của quốc hội xuất phát từ vị trí và tính chất của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội của xã hội ta. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước khác ban hành phải cụ thể hóa Hiến pháp và Luật, không được trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp và Luật. Hiến pháp và luật là hai loại pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định các hoạt động quan trọng của xã hội. Chỉ có Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao mới có quyền thông qua những loại văn bản này. Ngược lại, cũng chính việc quốc hội, cơ quan duy nhất được quyền thông qua các loại văn bản này mới chứng tỏ là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao.
- Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt dộng của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả. Đây là một chức năng quan trọng của Quốc hội.Thông qua việc thực hiện chức năng này cho phép Quốc hội thể hiện mình là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
2. Mối quan hệ giữa các chức năng của Quốc hội Việt Nam
Những chức năng quan trọng này của quốc hội có sự thống nhất và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thông qua nhiệm vụ lập hiến và lập pháp (tức là bằng các đạo luật), Quốc hội thực hiện các nhiệm vụ khác của mình như quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, chính sách tiền tệ và các lĩnh vực tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Ngược lại, thông qua việc thực hiện chức năng giám sát của mình mà Quốc hội kiểm tra lại chất lượng các đạo luật và các quyết định do mình ban hành để có thể đề xuất sáng kiến sửa đổi, bổ sung hoàn thiện và nâng cao chất lượng của chúng. Cứ như thế trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, hiểu quả và hiệu lực của các hoạt động lập pháp, quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao ngày càng được nâng cao.
III. CHỨC NĂNG GIÁM SÁT
1. Giám sát là gi?
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động giám sát nên ngay từ khi quốc hội thành lập nhà nước ta đã quy định đây là một trong những chức năng khôngt hể thiếu của Quốc hội. Tuy nhiên, để đánh giá một cách toàn diện về chức năng này của Quốc hội, chúng ta cần làm rõ về giám sát.
Hiện nay, cách diễn đạt và biểu hiện ý của từ “giám sát” có khác nhau, nhưng chúng có những điểm chung nhất là:
- “Giám sát” dùng để chỉ các hoạt động theo dõi , xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
- “Giám sát” luôn luôn gắn liền vơíi một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời được câu hỏi: ai (hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra và đưa ra những nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
- “Giám sát”cũng luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tức là phải trả lời được câu hỏi giám sát ai? Giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó phân biệt giữa” giám sát” và “ kiểm tra” .Kiểm tra thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sư tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự chủ thể kiểm tra của chủ thể hoạt động . Nói cách khác tự chủ thể hoạt động xem xét kĩ để đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc đang làm. Nhưng giám sát thì không có tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi ,xem xét chính hoạt động của mình.
- “Giám sát” phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại.
- “Giám sát” phải được tiến hành trên những căn cứ nhất định, đó là những quy định do chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát đặt ra. Nếu như không có những quết định này thì không có cơ sở để chủ thể có quyền thực hiện việc giám sát, đưa ra những nhận định về hoạt động ở đối tượng chịu sự giám sát.
- “Giám sát” luôn là hoạt động có tính mục đích. Mục đích của giám sát là luôn có được những nhận định chính xác của chủ thẻ có quyền giám sát đối với hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát và từ đó có biện pháp xử lí đối với những việc làm trái quy định của đối tượng chịu sự giám sát. Đảm bảo cho những quy định của chủ thể có quyền giám sát được thực hiện đúng và đầy đủ.
2. Các cơ quan có quyền giám sát
Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003 thì “giam sát là việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hôi, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội” (Điều 2). Như vậy ở đây chúng ta thấy rằng: chủ thể của hoạt động giám sát là Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dan tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội. Đối tượng chịu sự giám sát là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương và nhân dân cả nước. Hoạt động giám sát được thực hiện thông qua việc tiến hành theo dõi, xem xét đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thương vụ Quốc hội.
Hiện nay, trong tổ chức bộ máy nhà nước của nước ta, không chỉ có những chủ thể vừa nêu trên mới có chức năng giám sát. Hoạt động giám sát cũng là một trong nhũng chức năng của VKSND, TAND, HĐND... Tuy nhiên, hoạt động giám sát của những cơ quan này là có sự khác nhau.
3. Giám sát của Quốc hội
3.1. Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin về Nhà nước, muốn quyền lực thực sự là của nhân dân thì phải tập trung thống nhất quyền lực nhà nước cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân là Quốc hội, và vì vậy trong nhà nước XHCN, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hiến pháp của các nước XHCN trước đều quy định và thể hiện nguyên tắc thống nhất, tập trung quyền lực trong tố chức bộ máy nhà nước. Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy định về vị trí pháp lý của Quốc hội thể hiện qua các bản Hiến pháp của Quốc hội nước ta. Như vậy “quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một biện pháp không thẻ tách rời của quyền lực nhà nước và Quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất”. Do đó Quốc hội nắm quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật nhưng có đổi mới, đó là việc phân công, phân cấp rành mạch trong tổ chức nhà nước.
3.2. Những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.
Để bảo đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát, bảo đảm cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và luật khi thực hiên quyền giám sát của mình, quốc hội phải có những căn cứ nhất định:
- Thứ nhất: Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, vì đó là chuẩn mực, là thước đo, là căn cứ nhận định nội dung của một văn bản nào đó hoặc một việc làm nào đó của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của quốc hội là hợp pháp hay là không hợp pháp.
- Thứ hai: Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan nhà nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tế hoạt động của nhưng cơ quan nhà nước đó. Trong trường hợp cần thiết, Quốc hội có thể chất vấn hoặc đi xem xét thực tế xem tình hình có đúng như với các cơ quan nhà nước đã báo cáo không.
3.3. Đặc điểm giám sát tối cao của Quốc hội. Sự khác nhau giữa giam sát của Quốc hội và giám sát của các cơ quan nhà nước khác.
Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao và nó có một số đặc điểm riêng như sau:
+ Quyền giám sát của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước cao nhất.
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội mang tính tổng quát nhất, bao trùm nhất, mang tính định hướng nhất định đối với những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, những vấn đề mà nhân đân cả nước quan tâm.
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội được tiến hành với các điều kiện bảo đảm ở mức độ tin cậy cao nhất, toàn diện trên các mặt: Báo cáo, cung cấp thông tin, tư liệu, số liệu và các điều kiện đảm bảo khác.
+ Áp dung nhiều biện pháp mang tính quyền lực nhà nước cao nhất để xử lý những vấn đề nảy sinh trong giám sát và chịu trách nhiệm pháp lý đối với những người bị giám sát.
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội quan hệ trực tiếp và tác động trực tiếp đến hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhẩt trong hoạt động lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng: Sự khác nhau căn bản giữa quyền giám sat tối cao của Quốc hội với quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và Luật của các cơ quan nhà nước khác như: TAND, VKSND, HĐND... là ở đối tượng chịu sự giám sát và thẩm quyền giải quyết cũng như phương thức hoạt động. Giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao vì nó do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thực hiện, nó giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước cao nhất, hiệu lực pháp lý của nó là cao nhất vì các Nghị quyết của Quốc hội phải có giá trị pháp lý như là một văn bản buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện. Về phương thức, Quốc hội là cơ quan dân cử, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không theo cách làm việc với chế độ thủ trưởng như các cơ quan nhà nước khác.
IV. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
1. Chủ thể giám sát.
Như chúng ta đã biết, chức năng giám sát của Quốc hội được cụ thể thành các nhiệm vụ và quyền hạn. Quyền giám sát của quốc hội là quyền giám sát tối cao và quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Giám sát là công việc thường xuyên, liên tục trên nhiều phương diện với nhiều nội dung khác nhau. Nhưng Quốc hội nước ta lại hoạt động theo kỳ họp và phần đa các đại biểu Quốc hội là đại biểu chuyên trách. Chính vì vậy hoàt động giám sát của quốc hội không được thường xuyên liên tục, chưa có hiệu lực và hiệu quả cao, mang nặng tính hình thức.
Khắc phục điều này, luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định: “Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội” (Điều 1 - Luật hoạt động giám sát của Quốc hội).
Như vậy, ngoài Quốc hội còn có những cơ quan và người có thẩm quyền thực hiện quyền giám sát của Quốc hội là:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định tại Điều 11, 12, 13 của Luật Tổ chức Quốc hội.
- Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội: Thẩm quyền giám sát viêc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội được quy định từ điều 23 đến điều 29 của Luật Tổ chức Quốc hội.
- Đại biểu Quốc hội: Thẩm quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của Đại biểu Quốc hội được quy định tại các Điều 39, Điều 42, Điều 45, Điều 46 của Luật Tổ chức Quốc hội.
2. Đối tượng và phạm vi chịu sự giám sát của Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành, thì Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội co thẩm quyền giám sát đối với các tổ chức, cá nhân sau:
- Quốc hội giám sát hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Tòa an nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm a, Khoản 1, Điều 3 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội). Như vậy, đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội là tầng cao nhất của bộ máy nhà nước. Đó là các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn.
- Ủy ban thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của Quốc hội.
- Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động của Chính phủ,